QUẢN LÝ ĐÔ THỊ, YẾU TỐ SỐNG CÒN CỦA PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Vai trò của chính quyền và người quản lý đô thị

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, việc lựa chọn và xây dựng phương thức phát triển đô thị bền vững là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, nhiều đô thị trong cả nước vẫn còn tồn tại những yếu kém về mặt qui hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, trong đó có cả những yếu kém về nhận thức, tổ chức thực hiện, giám sát... Đó có thể kể đến là công tác qui hoạch xây dựng đô thị chưa được quan tâm đúng mức. Việc công bố, công khai qui hoạch xây dựng theo luật định của Luật xây dựng chưa được thực hiện nghiêm túc ở một số địa phương. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều nhưng không thể không nói đến trình độ, năng lực của đội ngũ công chức quản lý qui hoạch xây dựng đô thị ở cấp cơ sở chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Chưa thực hiện đúng vai trò của mình trong công tác quản lý xây dựng đô thị. Chính điều này là điều kiện “màu mở” để nảy sinh tình trạng xây dựng không phép, trái phép dẫn đến bộ mặt kiếm trúc của thành phố còn lộn xộn, thiếu mĩ quan. Kế đến có thể nói đến công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xây dựng đô thị của chúng ta còn quá chậm và còn nhiều bất cập. Một số chính quyền địa phương vẫn chưa làm tốt việc thực hiện phân cấp trong việc lập và quản lý qui hoạch xây dựng, cấp giấy phép xây dựng và giảm bớt các thủ tục hành chính. Có thể nói, chính những yếu tố này là những thách thức lớn khi tiến hành kiến tạo và xây dựng mô thức phát triển bền vững về đô thị.

Như đã phân tích ở trên, trong lĩnh vực qui hoạch xây dựng và quản lý đô thị chúng ta chỉ chú trọng đến “phần cứng” mà bỏ quên đi “phần mền” của đô thị, cái làm nên “phần hồn” cho một đô thị, đó chính là văn hóa, lối sống, phong tục tập quán và những nét sinh hoạt cũng như những thói quen trong đời sống hằng ngày của cư dân đô thị- yếu tố con người-văn hóa. Một đô thị gọi là văn minh hiện đại và bền vững không chỉ có những kiến trúc đồ sộ, nhà cao tầng, các trung tâm mua sắm… mà nó còn phải có một không gian văn hóa-xã hội, ở đó chủ thể xã hội của nó – con người đô thị, với tất cả những văn hóa nguyên hữu và hiện hữu, lối sống hiện hữu tôn tạo nên cái nét riêng cho thành phố đó. Dễ hiểu, muốn xây dựng một thành phố văn minh hiện đại và bền vững thì phải xây dựng được cả hai “mảng” nêu trên: không gian kiến trúc và không gian văn hóaxã hội.

Để làm được điều này, vai trò của chính quyền sở tại là vô cùng quan trọng, trước mắt phải “nhận thấy” được đô thị phải gồm hai “mảng” hữu cơ như trên đã đề cập và muốn xây dựng một đô thị cần phải đồng thời có động thái qui hoạch xây dựng và quản lý cả hai “mảng” này. Nếu chỉ chú trọng đến không gian kiến trúc mà bỏ quên không gian xã hội thì chúng ta sẽ có những “thành phố vô hồn”, “thành phố lạnh”; nếu chúng ta chỉ chú trọng đến không gian xã hội mà không chú trọng đến không gian đô thị thì vô tình chúng ta sẽ tiến hành quá trình ngược lại “nông thôn hóa đô thị”, “làng quê đô thị”. Chính vì vậy, trong quá trình qui hoạch xây dựng, quản lý đô thị cần phải tiến hành song song hai “mảng” này với nhau. Cần phải hiểu rằng, xây dựng không gian kiến trúc đô thị tuy khó mà dễ, nhưng xây dựng không gian xã hội đô thị tuy dễ mà khó. Khó là ở chỗ, đòi hỏi những người có trách nhiệm về qui hoạch xây dựng và quản lý đô thị phải có cái tầm để “nhìn thấy” được đâu là nét văn hóa, lối sống đặc thù của cư dân sở tại để có những chính sách phát triển phù hợp. Việc xây dựng một lối sống đô thị không khó nhưng xây dựng một lối sống vừa có thể kế thừa những nét truyền thống vừa có thể tiếp biến những nét văn hóa hiện đại, vừa mang nét văn hóa chung của dân tộc, vừa có cái riêng của văn hóa bản địa, vừa có cái “luật” nhưng cũng vừa có cái “tục”.

Sự tham gia của người dân vào công tác qui hoạch đô thị và xây dựng lối sống đô thị như là một thành tố phát triển bền vững

Kinh tế càng phát triển thì tiến trình đô thị hóa càng được thúc đẩy nhanh và người ta dễ dàng nhận biết tầm quan trọng của công tác quản lý đô thị. Kinh nghiệm trên thế giới cũng đã chỉ ra rằng nếu nơi nào làm tốt công tác quản lý đô thị thì sẽ thúc đầy tiến trình đô thị hóa nhanh, hợp lý và hiện đại. Quản lý đô thị không đơn thuần chỉ là mặt hành chính mà nó, ở một giác độ nào đó mà nói, là một khoa học, một nghệ thuật; quản lý đô thị không chỉ là việc quản lý kinh doanh, đất đai, nhà ở, cơ sở hạ tầng kĩ thuật, quản lý hành chính nhà nước, môi trường, tài chính đô thị mà còn là quản lý con người gắn với văn hóa xã hội hiện hữu; quản lý đô thị không chỉ là nhiệm vụ của nhà quản lý mà, đó là nhiệm vụ của toàn thể người dân với tư cách là một công dân đô thị.

Thông thường mà nói, khi nói đến chủ thể quản lý đô thị người ta nghĩ ngay đến các định chế quản lý Nhà nước trong phạm vi thành phố đó là các cơ sở ban ngành các cấp. Từ đó, khi nói đến cải tiến quản lý người ta chỉ tập trung bàn về chức năng, nhiệm vụ, sự phân công phân cấp và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, bởi theo cách nghĩ thông thường, các định chế Nhà nước mới có thể (và có quyền) để quản lý đô thị. Thực tế cho thấy, có nhiều nhân tố khác tham gia trực tiếp hay gián tiếp có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình quản lý đô thị như các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các tổ chức tài trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và đặc biệt là chính các tầng lớp dân cư trong đô thị ấy. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, nếu chỉ “đóng khung” cho việc cải tiến việc quản lý đô thị bằng những định chế nhà nước thì rất khó lòng có được một cơ chế quản lý tối ưu. Hơn thế nữa, các nguồn lực nhà nước ngày càng không đáp ứng được nhu cầu phát triển đô thị nên sự tham gia của các nhân tố khác ngoài định chế nhà nước trở nên cần thiết, đặc biệt là các nguồn lực trong nhân dân. Một khía cạnh nào đó mà nói, phát huy vai trò của nhân dân trong việc quản lý đô thị là cách làm đúng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và thể hiện vai trò, quyền của người dân vào công tác xây dựng quản lý đô thị nói riêng, trong việc phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội nói chung.

Rõ ràng, các tầng lớp dân cư trong đô thị vừa là đối tượng chịu sự quản lý của công tác quản lý đô thị nhưng lại vừa là chủ thể tham gia vào công tác quản lý đô thị. Nếu có định hướng đúng và khuyến khích được sự tham gia tích cực của các bộ phận dân cư thì công tác quản lý đô thị sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Muốn làm được điều trước hết, đòi hỏi những người có trách nhiệm về quản lý xây dựng đô thị phải “nhìn thấy” được nguồn lực này, thấy được sự tham gia của người dân vào công tác quản lý đô thị là cần thiết và tất yếu. Và kế đến là có những động thái tích cực và thiết thực để “kéo” người dân vào công tác quản lý đô thị mà cụ thể là tiến hành nghiên cứu nhu cầu của người dân để làm cơ sở cho các chính sách quản lý đô thị, đặc biệt là trong quá trình xây dựng lối sống đô thị. Kế đến lôi cuốn người dân tham gia và thay đổi những phương thức ứng xử của họ, xây dựng một lối sống tích cực. Song song với nó là phải đẩy mạnh các hoạt động của các đoàn thể xã hội và các hình thức tự quản.

Trong thời gian qua, thành thật mà nói, trong công tác quản lý, xây dựng và qui hoạch đô thị, chúng ta đã chưa chú trọng đúng mức về vai trò của các tầng lớp nhân dân, chưa phát huy được hết tiềm năng của họ và chưa đặc họ đúng vào vai trò, vị trí cần thiết. Nói khác đi, chưa thiết lập được mối quan hệ giữa người dân trong công tác quản lý đô thị, chính lẽ đó sự tham gia của người dân vào công tác quản lý đô thị còn mờ nhạc. Trong quá trình xây dựng lối sống đô thị mà nói, nếu không có sự tham gia của cư dân đô thị - chủ thể xã hội đô thị, thì không thể nào xây dựng được một lối sống đô thị theo mong muốn chủ quan của những người có trách nhiệm về quản lý đô thị. Lời căn dặn của Bác: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” trong trường hợp này càng thể hiện tính đúng đắn.

Như trên đã đề cập, một thành phố luôn gồm có “phần cứng” và “phần mền” tức là không gian kiến trúc đô thị và không gian xã hội đô thị. Trong đó, lối sống (phương thức sống) phát họa nên “hình tượng mềm” của thành phố đó. Hơn nữa, nội hàm văn hóa của “hình tượng thành phố” phải thông qua các hoạt động sống của thị dân (nhóm thị dân) mới có thể thể hiện ra. Cái gọi là hoạt động sống là một phạm trù bào hàm cả phương thức hoạt động sống, phương thức tiêu dùng, phương thức giải trí hay tiêu nhàn, phương thức tham gia hoạt động chính trị, phương thức giao lưu giao tế xã hội và cả những phong tục tập quán của chủ thể xã hội ấy. Tuy nhiên văn hóa đô thị và lối sống đô thị không thể dựa vào ý chí của một người nào đó mà nó phải là sản vật hoạt lực của chỉnh thể thành phố đó. Và điều hiển nhiên là, văn hóa đô thị, lối sống đô thị không phải tự nhiên mà có mà nó được hình thành, bảo tồn và phát triển thông qua những điều kiện xã hội cụ thể trong một xã hội cụ thể bằng những thể chế cụ thể. Phát triển đô thị bền vững không tách rời chủ thể xã hội đô thị - thị dân và không tách rời các hoạt động sống của chủ thể đó.

Một đô thị gọi là “bền vững” thì nó phải có “cái hồn”, “bản sắc”; một đô thị muốn có “hồn” thì cần phải làm cho chủ thể xã hội đô thị đó có “hồn”, mà muốn chủ thể ấy - con người - có “hồn” thì chính con người ấy phải “sở hữu” một lối sống riêng cho mình. Nhưng lối sống, với tất cả những đặc trưng của nó, không tự nhiên mà có mà cần phải được xây dựng, tôn tạo thông qua một quá trình dài và có ý thức. Bởi đặc trưng cơ bản của lối sống là vừa có tính tổng hợp vừa có tính cụ thể: lối sống có lối sống cá nhân và lối sống của nhóm, lối sống thuộc về phạm trù chủ thể, phương thức sản xuất thuộc phạm trù khách thể; vừa có tính ổn định vừa có tính biến dị: lối sống thuộc về hiện tượng văn hóa, dưới sự chế ước của những điều kiện khách quan nhất định thì lối sống có một qui luật phát triển riêng của nó, đặc điểm hành vi và hình thức hoạt động của nó có tính ổn định tương đối và có tính kế thừa lịch sử. Tính ổn định của lối sống giúp nó có khuynh hướng bài xích những lối sống dị thể, khác biệt. Bên cạnh đó, lối sống luôn có tính biến đổi cùng với sự biến đổi của xã hội, nói khác đi nó là một bộ phận tổ thành trọng yếu của sự biến đổi xã hội; vừa là thuộc tính hình thái xã hội vừa có tính tính toàn nhân loại: với những hình thái xã hội khác nhau, lối sống luôn có tính xã hội, trong xã hội có giai cấp tức có tính giai cấp. Chẳng hạn trong xã hội nô lệ có lối sống của giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ; trong chế độ phong kiến, tồn tại lối sống của hai giai cấp đối kháng là nông dân và địa chủ… ngoài ra, lối sống còn có đặc điểm toàn nhân loại phi hình thái xã hội. Trong sự giao lưu quốc tế như hiện nay, làm cho lối sống có hướng dung hòa; vừa có “chất” vừa có “lượng”: trong hoạt động sống của con người không thể tách rời khỏi điều kiện sống về vật chất và tinh thần. Chính lẽ đó, muốn xây dựng lối sống trước hết phải đặc chủ thể xã hội của lối sống ấy trong điều kiện sống cụ thể để xem xét, và xem xét lối sống không thể tách rời những hoạt động sống cụ thể của chủ thể xã hội đô thị đó.

Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, phát triển đô thị bền vững là điều tất yếu, nhưng điều tiên quyết là chính những người làm công tác qui hoạch, quản lý đô thị cần phải có cái nhìn đúng đắn, khoa học, toàn diện về nội hàm và ngoại diên của thuật ngữ phát triển đô thị bền vững. Nói một cách dễ hiểu, muốn xây dựng và thúc đẩy phát triển bền vững đô thị thì trước hết phải có những điều kiện sống tương ứng trong đó có thể kể đến là điều kiện về môi trường sinh thái, điều kiện về giáo dục và chăm sóc sức khỏe, những điều kiện về vật chất và tinh thần, điều kiện về nhà ở, điều kiện về giao thông đi lại, điều kiện về an ninh trật tự mà đặc biệt là những điều kiện về “hạ tầng mền đô thị”: văn hóa và lối sống đô thị.

TS. Phạm Đi

Đà Nẵng, tháng 5/2016

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ