NHỮNG CÁI
“KHÓ” KHI NGƯỜI DÂN “BUỘC” CÁN BỘ GIẢI TRÌNH
Nghị định số 90/2013/NĐ-CP về “Quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện nhiệm vụ quyền hạn được giao” do Chính phủ ban hành ngày 8 tháng
8 năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày
30/9/2013) là một điểm nhấn trong cải cách hành chính, tiếp tục khẳng định quy
chế dân chủ và là điều kiện pháp lý để các tổ chức, cá nhân thể hiện quyền làm
chủ của mình liên quan các lợi ích chính đáng, thiết thân, hợp pháp của họ. Tuy
nhiên, đứng ở giác độ người dân mà nói, khi chuẩn bị và tiến hành công tác “buộc”
cán bộ và những người đứng đầu cơ quan Nhà nước giải trình những vấn đề liên
quan đến lợi ích của họ khả năng sẽ phát sinh những mâu thuẫn, hay nói nôm na
là cái khó, mà chính bản thân người yêu cầu giải trình ít nhiều gặp phải, lúng
túng. Thứ nhất, theo khoản 2 điều 6 của
Nghị định này, “Nội dung yêu cầu giải trình liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu
cầu giải trình”, như vậy đứng về phía người yêu cầu giải trình mà nói, với những sự việc
cụ thể và có tính chất phức tạp về lợi ích, sẽ khó phân biệt được đâu là “lợi
ích liên quan” và “lợi ích liên quan trực tiếp”. Thứ hai,
khoản 3 điều 6 Nghị định 90 quy định, “Nội
dung yêu cầu giải trình thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của cơ quan được yêu
cầu”, trên thực tế có những sự việc mang tính liên đới trách nhiệm của
nhiều cơ quan quản lý (vấn đề đền bù, giải tỏa, tái định cư là một ví dụ), nếu
người dân cảm thấy quyền lợi của họ (chẳng hạn tiền áp giá đền bù chưa thỏa
đáng) bị xâm hại, lúc đó việc xác định đối tượng giải trình (UBND, chủ đầu tư,
Ban đền bù giải tỏa,…) sẽ là bài toán khó cho người dân. Trong khi đó, quy định
thời hạn tối đa là 90 ngày kể từ ngày đương sự biết được hành vi của cơ quan
nhà nước đã tác động đến quyền và lợi ích của mình và phải có yêu cầu giải
trình, nếu người yêu cầu giải trình “sai địa chỉ” thì sẽ giải quyết như thế
nào? Thứ ba, người dân muốn “buộc”
cán bộ giải trình thì cơ chế nào để giám sát hoạt động giải trình của người
giải trình. Theo quy định ở điều 13 Nghị định này về “thực hiện giải trình” thì
có 2 hình thức giải trình là “giải trình trực tiếp” và “giải trình bằng văn
bản”, về cơ bản mà nói thì thể hiện được tính dân chủ, khoa học, đúng trình tự
pháp luật. Thế nhưng, đứng về phía người dân mà nói, họ hoàn toàn bị động trước
những nội dung nào là “đơn giản” nội dung nào là “phức tạp”, và ai là người có
quyền giám sát quá trình thực hiện giải trình này? Đành rằng điều 17 của Nghị
định có quy định việc thanh tra, kiểm tra thực hiện trách nhiệm giải trình
thuộc cơ quan nhà nước cấp trên, nhưng vấn đề là ở chỗ người dân rất cần quá
trình giám sát này được tiến hành trước, trong và sau tiến trình giải trình, có
như thế mới mang lại tính khách quan, dân chủ, minh bạch,… Thứ tư, người yêu cầu giải trình khó phân biệt được lúc nào yêu cầu
của họ “thuộc bí mật đời tư” hay “bí mật kinh doanh” (theo quy định tạo
điểm c) và điểm d) điều 5 của Nghị định). Nói khác đi, đứng về giác độ luật
pháp mà nói, không loại trừ hành vi người bị yêu cầu phải giải trình “mượn cớ”
là yêu cầu giải trình đó “không thuộc phạm vi trách nhiệm giải trình” bởi đó là
vấn đề “bí mật đời tư” hay “bí mật kinh doanh” , lúc đó cái “khó” của người yêu
cầu giải trình là thiếu thông tin xác thực (thậm chí hiểu biết về pháp luật) để
“đối chất” với người giải trình. Rõ ràng lúc này càng cần phải có cơ chế giám sát
(cơ quan nhà nước cấp trên) và cơ chế công khai minh bạch (các văn bản pháp lý
liên quan) đề người dân có đủ điều kiện pháp lý tiến hành quá trình giải trình,
mang lại lợi ích hợp pháp, chính đang cho bản thân. Có như thế, việc thực hiện
giải trình mới thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch, kịp thời, vừa đảm
bảo quyền và lợi ích của Nhà nước vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của tổ chức, cá nhân.
Bài viết được đăng trên Báo Pháp luật Tp.HCM ngày
17/8/2013
Nhận xét
Đăng nhận xét