AI ĐEM CON SÁO SANG SÔNG?
“Sáo sổ lồng”… không biết bay!
Công bằng mà nói, hiện nay cấp
học phổ thông của ta chưa có một sự sàng lọc thật sự (kể cả những kỳ thi lớn
như các kỳ thi chuyển cấp). Bằng chứng: con số lưu ban chỉ là phần còn lại của
con số 99,99%. Một giáo viên dám khẳng định với toàn thể học học sinh của lớp rằng:
học để đạt học sinh xuất sắc thì không khó, khó nhất là học để…lưu ban. Không
có giáo viên (đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm) nào đành đoạn để học sinh của
mình ở lại lớp. Có không ít trường hợp giáo viên chủ nhiệm trực tiếp gặp giáo
viên bộ môn… xin điểm cho học sinh của mình để rồi cuối năm thì tất tần tật
“sáo” phải “sang sông”: 100% học sinh lên lớp. Điều này xét cho cùng cũng là
căn bệnh thành tích (bệnh mãn tính). Một điều chúng ta cần nhìn nhận là không
phải chính họ (giáo viên, nhà trường) tạo ra căn bệnh thành tích này mà “vi khuẩn
gây bệnh” dường như đã nằm trong tiềm thức của các cấp quản lý (và trong cả
chúng ta), nó tạo nên một khuôn mẫu, định chế khó xóa bỏ. Một vị giáo viên nói
đùa rằng muốn nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông của ta thì dễ ẹt: trường
nào có tỷ lệ học sinh lưu ban cao nhất, có tỷ lệ xử lý vi phạm kỷ luật (vi phạm
trong quy chế thi, trong nội quy, quy chế của nhà trường) cao nhất, tỷ lệ học
sinh chuyển cấp thấp nhất… thì hãy tuyên dương (như đã từng tuyên dương, khen
thưởng những trường có “thành tích” cao). Lúc đó, giáo dục của ta sẽ khởi sắc
(!). Như vậy lỗi tại ai? Thầy (kể cả nhà trường) hay trò? Đích thực mà nói, cả
hai đều là nạn nhân. “Mấy ai hiểu cụm từ “tỷ lệ cuối năm” nó nặng nền đối với
giáo viên như thế nào không? (“Nỗi lòng giáo viên…” Tuổi trẻ, 2-11-2002); bản thân người học cũng chẳng muốn mình đạt
kết quả kém. Dường như có một cái gì đó án ngữ trong cách nghĩ, cách làm, cách
nhìn nhận, đánh giá… tạo nên cái vòng lẩn quẩn này.
Thật chuua xót khi học sinh
lớp 9 lúc làm toán phải lật bảng cửu chương, còn ấp úng khi hỏi về cách tính diện
tích hình chữ nhật; học sinh lớp 7 không tài nào phân biệt các nốt nhạc cơ bản,
không hát được bài Quốc ca; học sinh lớp 12 không tài nào nhớ được bảy hằng đẳng
thức đáng nhớ… Tất cả đã được “khuôn mẫu hóa”, học sinh chỉ thực hiện các động
tác đơn giản: ghi chép-học thuộc-trả bài (thi cũng là hình thức trả bài). Mô thức
này cứ lặp đi lặp lại trở thành thói quen, mà một khi đã thì thói quen thì khó
xóa bỏ. Do đó, khi đổi mới cách ra đề thì không số không nhỏ học sinh tỏ ra
lúng túng mà kết quả của kỳ thi tuyển sinh đại học 2002 là một minh chứng.
“Sáo ơi…chờ ai, ai chờ”?
Như thế, để nâng cao chất lượng
dạy và học ở bậc phổ thông hiện nay chúng ta phải có một cuộc cách mạng thật sự.
Người học, người dạy, nhà quản lý giáo dục phải tự ý thức sửa đổi từ chính bản
thân mình, không thể “chờ ai, ai chờ” nữa. Từ phía nhà quản lý, nên thay đổi cách nhìn nhận,
đánh giá. Phải dám chấp nhận những sự thật để từng bước tháo gỡ, chấp nhận “đau
đơn đấy nhưng hy vọng đấy…” (Tuổi trẻ,
24-10-2002). Kiên quyết xóa bỏ tình trạng dạy thêm-học thêm tràn lan, vô tổ chức
như hiện nay. Phải có một cách sách giáo dục nhất quán, ổn định bởi vì sự thay
đổi quá nhanh, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn sẽ rất dễ đi đến bất ổn, đổ vỡ.
Về phía người dạy, nên coi học sinh là trung tâm, xóa bỏ tình trạng “độc thoại”,
phát huy tính tích cực của học sinh bằng lối dạy đối thoại, trực quan. Không
nên áp đặt học sinh mà ngược lại phải kích thích óc sáng tạo bằng cách cho học
sinh tự thảo luận nhóm, nói lên những ý kiến riêng của mình. Khiêm khắc trong tổ
chức thi cử, chấm thi (kể cả những bài kiểm tra). Kiêm quyết xử lý những trường
học vi phạm trong học tập, thi cử.
- Đối với người học, phải ý
thức được việc học tập của mình. Độc lập trong suy nghĩ, tự tìm tòi học hỏi.
Nghiêm túc trong thi cử, tránh tình trạng học vẹt, học tủ… Để giáo dục nói
chung, giáo dục phổ thông nói riêng của ta chuyển mình, cần phải cải cách đồng
bộ các mắc xích: dạy - học - thi. Sự đồng bộ của chỉnh thể này chắc chắn sẽ đi
đến một kết quả khả quan hơn.
Bài viết đăng trên Báo Tuổi trẻ, ngày 8/11/2002
Nhận xét
Đăng nhận xét