LUÔN HƯỚNG VỀ NHAU...


Luôn hướng về nhau


Trong kho tàng văn học dân gian, tình yêu thương vợ chồng “chiếm” một vị trí không nhỏ. Vì sao vậy? Có hai lẽ: thứ nhất, tình cảm vợ chồng là sự thăng hoa đẹp nhất của tình yêu nam nữ. Nếu như tình yêu nam nữ chỉ “dừng lại” ở cái “tình” thì tình yêu thương giữa vợ và chồng còn tạo nên một thứ nữa, cái “nghĩa”. Tình nghĩa  sẽ là một thứ keo dính, những sợi dây tình cảm để “trói buộc” hai con người, để rồi: “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”, để rồi: “Chồng ta áo rách ta thương”… thứ hai, đối với một người Việt Nam , gia đình là một giá trị, nó là một tổ ấm (theo đúng nghĩa của nó) để sưởi ấm con người, nó là một pháo đài để che chở, là bệ phóng để đưa con người tiến lên… “Gái thương chồng đương đông buổi chợ, trai thương vợ nắng quái chiều hôm” là một minh chứng.

Đầu tiên khi xét về kết cấu âm tiết, ngữ điệu… thì đây là một câu ca dao “lạ”. Nếu như có một nhận định rằng, ca dao phải là tứ thơ lục bát (6-8) thì trong trường hợp này, nhận định đó không đúng hay chí ít thì đây là trường hợp ngoại lệ. Cái độc đáo lại nằm ngay chỗ này: khi một tình cảm trào dâng, dạt dào không thể kìm nén, “gói gọn” vào những “khuôn phép” bình thường thì, tự bản thân nó, tìm đến một hình thức mới, “khuôn phép” mới để biểu đạt. Cách biểu đạt này hoàn toàn phù hợp với tính cách tâm lí của những người nông dân chân lấm tay bùn; chân tình, giản dị, mộc mạc mà không kém phần mãnh liệt, thật là “đã yêu thì bảo rằng yêu…”. Cái tinh tế nằm ngay trong cái giản dị, cái cuồng nhiệt nằm ngay trong cái thư thái, cái tình cảm mảnh liệt nằm ngay trong những câu nói chân chất…

Nhưng tại sao lại “thương chồng đương đông buổi chợ”. Thương chồng trong lúc đương đông buổi chợ (tức chợ đang đông, nhân vật đang đi chợ) hay thương chồng “tựa” như “đương đông buổi chợ” (cái “sôi nổi”, “náo nhiệt”… của một buổi chợ đang đông; nhân vật có thể không ở chợ)? Hay một ý nghĩa nào khác chăng?

Nếu theo cách hiểu thứ nhất (nhân vật đang ở chợ), tức là khi một người phụ nữ (một người vợ, một người mẹ) đóng vai trò của một người nội trợ, họ muốn làm tốt vai trò đó của mình: mua gì, nấu như thế nào để hợp khẩu vị của chồng. Làm sao mà những thứ mà mình mua, mình nấu càng “kết tinh” nhiều tình cảm của mình vào đó càng có ý nghĩa, cho dù đó là “canh rau muống” hay “cà dầm tương”. Để rồi một ngày nào đó, những thứ mà vợ nấu và vợ mua trở thành một “tài sản” vô hình, một nỗi nhớ hiện hữu và thường trực trong trái tim người chồng, để rồi “anh đi anh nhớ… canh rau muống, cà dầm tương… ” em là em chứ không ai khác.

Còn cách hiểu thứ hai: cái náo nhiệt, sôi động, muôn màu, muôn vẻ… của một buổi chợ “đương đông” được “ví” như cái tình cảm của người vợ đối với người chồng thân yêu của mình? Không phải là không có lý nhưng hình như nó ngường ngượng làm sao ấy! Nó trừu tượng quá, xa xôi quá thì phải? Chắc gì cái buổi chợ “đương đông” ấy không có sự hổn độn xô bồ, ồn ào và có khi “bất quy tắc”. Chẳng lẽ tình cảm của người vợ đối với chồng lại mang cả những “đặc tính” này? Dân gian ta có câu “ồn như cái chợ”, có khi cái chợ lại “đối lập” với gia đình “khôn nhà dại chợ”…  Như thế cách hiểu này dường như chưa ổn lắm, chưa phù hợp với tính cách tâm lý của người nông dân cho lắm? Nó càng “không ổn” khi xét đến câu sau: “Trai thương vợ nắng quái chiều hôm”. “Nắng quái” là thứ nắng yếu ớt lúc chiều tà, khi mặt trời đã hạ xuống dưới đường chân trời, ánh nắng lúc này chỉ là những tia khúc xạ yếu ớt… Chẳng lẽ “gái thương chồng” một cách nồng nhiệt đến thế (buổi chợ đông) mà “trai” chỉ “đáp lại” bằng cái tình cảm yếu ớt, nhạt nhẽo, “khúc xạ” thế sao?. Với hai câu thất ngôn dường như ở thế “biên ngẫu” để diễn tả cái tình cảm “sóng đôi” của tình nghĩa vợ chồng không cho phép ta hiểu theo cách này.

Thế còn cách hiểu nào nữa chăng? Có thể! Nếu xét chữ “đương”, ta thấy, “đương” là một phương ngữ nhưng liệu nếu thay “đang” cho “đương” có được không? Nếu như thế thì câu ca dao đâu còn vẻ đẹp của nó! “Đang” là từ biểu thị một sự việc, một hiện tượng diễn ra chưa kết thúc trong thời điểm được xem là thời điểm mốc (thường là trong hiện tại, ngay khi nói). “Em đang thương anh” chỉ cho chúng ta một thông điệp, hiện tại, tình cảm đó là xác định: đang thương. Còn quá khứ (trước đây), tương lai thì sao: không ai có thể “và dám” tiên đoán được! Nhưng nếu là “đương” thì khác. “Đương thương” có nghĩa là đã thương, đang thương và sẻ thương. Hơn thế nữa, “đương” còn có ý nghĩa là một hành động “nhận lấy về mình để là” về một công việc, trách nhiệm to lớn và nặng nề. Hai chữ “đương” trong hai vế của câu tục ngữ như một bản lề khép mở giữa quá khứ và tương lai, là chất keo kết dính hai con người “trai – gái”, giữa cái “tình” và cái “nghĩa” của vợ chồng. Nó còn phản ánh sự dấn thân, chia sẻ, đùm bọc, hy sinh cho nhau hay nói đúng hơn là một sự chung thủy, có trước có sau. Hơn thế nữa cái cái độc đáo của cách dùng từ “gái” và “trai”: “vợ” ở đây được dùng là “gái”, “trai” được thay thế cho “chồng”. Cái tình cảm vợ chồng (dù ở tuổi nào, già hay trẻ), đều dào dạt, mảnh liệt như tình cảm lúc đang yêu, như tình cảm của người con “trai” và người con “gái” như “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”.

Theo cách hiểu này “đương đông buổi chợ” hay “nắng quái chiều hôm” có ý nghĩa là hai ngữ cảnh, hai không gian, hai thời gian, hai tình huống, hai trạng thái tâm lý… trong muôn hình vạn trạng, những tình huống trong cuộc sống: “chợ đương đông”, “nắng quái chiều hôm” là hai trạng thái, tình huống đối lập giữa một bên là sự ồn ào, náo nhiệt… của một buổi chợ; một bên là sự trầm lặng, buồn bả… của một chiều hoàng hôn. Nhưng dù sao, dù hoàn cảnh nào thì tình cảm của vợ chồng vẫn luôn vĩnh hằng, trước sau như một, vợ chồng vẫn luôn hướng về nhau, vì nhau và luôn hướng về tương lai phía trước mặc cho những khó khăn còn hiện hữu trong cuộc sống thường nhật. chính lẽ đó, dù đời sống vật chất trước đây có khó khăn, còn “râu tôm nấu với ruột bầu”, còn “chồng em áo rách”, nhưng tình cảm tha thiết, thủy chung của vợ chồng đã vượt lên tất cả, hạnh phúc luôn hiện hữu trong mỗi mái tranh nghèo. Đấy là điều khiến chúng ta cần phải suy nghĩ, trăn trở trong cuộc sống gia đình hiện tại: đời sống vật chất tăng lên nhưng nó đang là một “đại lượng” tỉ lệ thuận với các cuộc ly hôn và tỉ lệ nghịch với vấn đề hạnh phúc gia đình. Do đó, câu ca dao “Gái thương chồng đương đông buổi chợ, trai thương vợ nắng quái chiều hôm” vẫn còn mang tính thời sự nóng bỏng.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ