VAI TRÒ, NĂNG LỰC CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG CƠ SỞ TRONG CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

 

PHÁT HUY VAI TRÒ, NĂNG LỰC CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG CƠ SỞ TRONG CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TS. Phạm Đi

Chủ trương xây dựng Nông thôn mới của Đảng và Nhà nước ta là một chủ trương chiến lược, một mắc xích quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa đất nước, giải quyết các vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn[1], nhằm từng bước nâng cao thu nhập cho nông dân, hiện đại hóa nền nông nghiệp, văn minh hóa nông thôn và dần giảm khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Có thể nói, thực hiện toàn diện hiện đại hóa đất nước thì nhiệm vụ nặng nề nhất, khó khăn nhất là nông thôn và chủ trương xây dựng Nông thôn mới là một trong những đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển nông thôn nhanh, mạnh, vững chắc theo hướng bền vững, từng bước hiện đại hóa nông thôn, hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, để xây dựng và thực hiện tốt các mục tiêu về Nông thôn mới cần phải sự hợp lực của toàn xã hội, cần phải có sự chỉ đạo kịp thời, đúng đắn, dứt khoát của các cấp lãnh đạo, quản lí mà trong đó không thể không nhắc đến là các tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) mà cụ thể là các TCCSĐ ở nông thôn. Đòi hỏi tổ chức này phát huy toàn bộ năng lực của mình như năng lực chấp chính, năng lực định hướng phát triển kinh tế nông thôn, năng lực phát triển xã hội và văn hóa nông thôn, năng lực hòa giải, năng lực cố kết và đoàn kết xã hội, bởi lẽ tổ chức đảng cơ sở và đảng viên cơ sở là sợi dây liên đới, là“chất xúc tác” hữu hiệu cho công tác chỉ đạo, định hướng, triển khai các nhiệm vụ cụ thể để xây dựng nông thôn mới ở từng địa phương.

1.     Vai trò của tổ chức đảng và đảng viên cơ sở trong xây dựng nông thôn mới

Tiến trình hiện đại hóa đất nước nói chung, hiện đại hóa nông thôn nói riêng có tiến hành thuận lợi, hiệu quả hay không; phát triển xã hội nông thôn nói chung, phát triển kinh tế nông thôn nói riêng có đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại, có đi đúng mục tiêu hay không, mấu chốt là ở chỗ, sự lãnh đạo của Đảng có hiệu quả, nhất quán, quyết liệt, triệt để hay không. Đến lược mình, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với TCCSĐ nông thôn quyết định bởi sự định vị chính xác vai trò, vị trí của tổ chức đảng cơ sở, đảng viên cơ sở và vấn đề phát huy tác dụng hạt nhân của tổ chức này. Bởi lẽ, TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) nói chung, từng đảng viên cơ sở nói riêng là nền tảng, là hạt nhân chính trị cơ sở; là tổ chức gần dân, sát dân nên dễ dàng nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, suy nghĩ của người dân; là nơi trực tiếp thể hiện quyền làm chủ của nhân dân,... Chính lẽ đó TCCSĐ đóng vai trò như những sợi dây nối kết và thúc đẩy sự cố kết xã hội cũng như thúc đẩy nhanh, bền vững tiến trình thực hiện nông thôn mới hiện nay. Nói cách khác, tổ chức đảng cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nông thôn nói chung, phát triển nông thôn mới nói riêng.

Cần phải nhấn mạnh thêm rằng, xây dựng nông thôn mới không phải là khẩu hiệu nhất thời, là giải quyết tình huống mà là vấn đề chiến lược lâu dài gắn với những mục tiêu toàn diện trong tiến trình hiện đại hóa đất nước, trong đó bao gồm cả việc xây dựng và đẩy mạnh các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng và cả vấn đề xây dựng đảng, bao gồm kiện toàn bộ máy đảng cơ sở. Ở một bình diện nào đó mà nói, tổ chức đảng cơ sở vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy tiến trình kiến tạo nông thôn mới.

Trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, vai trò nhiệm vụ căn bản của tổ chức đảng cơ sở được thể hiện trong các bình diện sau:

Một là, phát triển xã hội nông thôn nói chung, phát triển sản xuất kinh tế nông thôn nói riêng. Phát triển xã hội nông thôn là cơ sở, mục tiêu, cũng là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng nông thôn mới. Do đó, tổ chức đảng cơ sở có vai trò trọng yếu là định hướng (theo chủ trương chung của Đảng và bám sát vào tình hình thực tế đặc thù của địa phương mình) để thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân thoát nghèo, từng bước tiến đến làm giàu. Để làm được điều này, chi bộ đảng cấp thôn/xã cần phải nắm rõ được định hướng chung, chỉ đạo chung nhưng cũng cần phải biết rõ được những đặc điểm, ưu thế, thực lực của địa phương mình, từ đó mới có thể thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương theo lợi thế riêng của mình.

Hai là, nâng cao thu nhập cho nông dân. Nông thôn trù phú, hiện đại; nông nghiệp phát triển bền vững và người nông dân giàu có, sung túc là đặc trưng cũng là biểu hiện sinh động nhất của nông thôn mới. Chính lẽ đó, phát triển nông thôn, làm giàu cho nông dân là nhiệm vụ hàng đầu của tổ chức đảng cơ sở. Nói cách khác, tổ chức đảng cơ sở có trách nhiệm và vai trò trọng yếu trong công tác xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho nông dân; tìm kiếm và xúc tiến các kênh làm giàu cho nông dân, phát triển kinh tế địa phương.

Ba là, định hướng giáo dục văn hóa, văn minh nông thôn. Thúc đẩy văn minh, xây dựng văn hóa nông thôn là nội dung hạt nhân trong xây dựng nông thôn mới[2]. TCCSĐ có vai trò, trọng trách trong xây dựng, định hướng, giáo dục văn hóa và tố chất văn hóa, lối sống văn minh cho nông dân, kiến tạo một bộ mặt văn minh cho nông thôn. Thông qua các hình thức, phương thức khác nhau theo đặc thù của địa phương mà có thể tổ chức giáo dục, nâng cao nhận thức cho nông dân trở thành những hình mẫu “nông dân mới” có văn hóa, hiểu biết về khoa học kĩ thuật, có chí hướng làm ăn, biết làm giàu chính đáng, tương thân tương ái; có lí tưởng, hiểu biết và tôn trọng pháp luật,...

Bốn là, cải thiện diện mạo nông thôn. Trong bộ 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới thì kiến tạo, cải thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật nông thôn chiếm nhiều tiêu chí hơn cả. Điều này cũng nói lên vai trò của việc xây dựng “phần cứng” trong nông thôn mới và đây cũng là trọng trách quan trọng của tổ chức đảng cơ sở. Tuy nhiên, việc cải thiện diện mạo nông thôn không chỉ dừng lại ở việc kiến thiết các cơ sở hạ tầng kĩ thuật mà còn, và hơn thế nữa, nâng cao nhận thức của người dân về ý thức bảo vệ môi trường, tôn tạo cảnh quan nông thôn, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống cũng như ý thức quản lí, tự quản, giám sát trong tiến trình xây dựng cơ sở hạ tầng nói trên, cải thiện điều kiện sống cho nông dân và diện mạo cho nông thôn.

Thúc đẩy nhanh tiến trình xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Tuy nhiên, với địa vị của mình, tổ chức đảng cơ sở cần nhận thức rõ và phát huy những vai trò của mình, gắn với đặc thù của địa phương để có những hành động cụ thể, kịp thời và có hiệu quả, làm đầu tàu, định hướng để phát huy tố chất sẵn có, tính chủ động, tích cực, tự lực, tự cường, tính sáng tạo của người nông dân.

2.     Một số tồn tại và yếu kém của tổ chức đảng cơ sở trong xây dựng nông thôn mới

Thực tế từ nhiều địa phương hiện nay cho thấy, không ít địa phương TCCSĐ còn yếu kém trên nhiều mặt: yếu kém về năng lực tổ chức, tố chất văn hóa còn thấp, kết cấu đội ngũ còn chưa hợp lí, công tác tư tưởng đôi lúc còn lơ là, đảng viên cơ sở chưa thật sự gương mẫu, là đầu tàu trong các hoạt động, nhất là xúc tiến xây dựng chương trình Nông thôn mới, nhiều lúc nhiều nơi đảng viên cơ sở còn trì trệ, lúng túng, bị động trong công việc, còn có thái độ bàng quan trước tiến trình xây dựng Nông thôn mới. Đúc kết từ thực tiễn cho thấy, hiện nay tổ chức đảng cơ sở đối với vấn đề xây dựng nông thôn mới còn tồn tại những bất cập, yếu kém sau:

Thứ nhất, năng lực tổ chức, định hướng của TCCSĐ trong xây dựng Nông thôn mới còn nhiều bất cập. Tổ chức đảng cơ sở cấp xã mà đặc biệt là cấp thôn hiện nay bị nhiều hạn chế bởi điều kiện khách quan hiện hữu: tuổi tương đối lớn, trình độ văn hóa không cao, năng lực tổ chức còn hạn chế, đội ngũ hậu bị ít ỏi. Thêm vào đó là đo đặc thù ở nông thôn về công việc đồng án, tổ chức đời sống nên công tác liên lạc, tổ chức bồi dưỡng giáo dục cũng như triển khai các hoạt động rất khó khăn. Trong những năm trở lại đây, đảng viên nông thôn tham gia hoạt động của chi bộ ngày một ít đi (nhiều chi bộ cơ sở nông thôn, ngay trong Đại hội chi bộ nhưng chỉ có khoảng 60-70% đảng viên tham gia[3]). Thiết nghĩ, đây là những tồn tại mang tính đặc thù và có yếu tố khách quan nhưng rõ ràng là những chỉ báo không có lợi cho việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ, chủ trương được giao trong đó có công tác triển khai xây dựng nông thôn mới.

Thứ hai, năng lực của đảng viên sơ sở chưa đáp ứng được với yêu cầu xây dựng và phát triển nông thôn trong tình hình mới. Cùng với sự chuyển biến từ sản xuất nông nghiệp theo kiểu truyền thống sang hiện đại (vận dụng phương thức sản xuất mới trong nông nghiệp, đưa khoa học kĩ thuật và nông nghiệp), thì yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo, dẫn dắt của tổ chức đảng cơ sở cũng cần có sự thay đổi và chuyển biến. Thế nhưng, thực tế cho thấy nhiều tổ chức đảng cơ sở nông thôn nhận thức về điều này còn hạn chế, còn có tư tưởng bảo thủ, trì trệ, bàng quan; đối diện với những vấn đề mới, yêu cầu mới, tình huống mới thì thúc thủ, thậm chí phó mặc thờ ơ. Xây dựng Nông thôn mới, đối với đảng viên cơ sở mà nói, cần phải có những nhận thức mới, tri thức mới, cách thức làm việc mới để đảm bảo tính tiên phong, tính định hướng, tính chỉ đạo của Đảng. Đòi hỏi mỗi đảng viên cơ sở cần có những quan niệm mới về sự lãnh đạo và phát triển xã hội, để từ đó xử lí tốt mối quan hệ giữa nông dân với nông dân, nông dân với các tổ chức nông dân, nông dân với tổ chức cơ sở,…

Thứ ba, năng lực tổng hợp và nhận thức về vai trò, ý nghĩa của xây dựng nông thôn mới của đảng viên còn nhiều bất cập.  Tổ chức cơ sở đảng nông thôn là tổ chức gần dân nhất, triệt để nhất, trong giai đoạn mới của hiện đại hóa nông thôn, xây dựng năng lực chấp chính vẫn ở vị trí hành đầu, thế nhưng thực tiễn nhiều nơi cho thấy ý thức cầu thị, sáng tạo của cán bộ, đảng viên cơ sở chưa cao: đa số đảng viên chi bộ cơ sở có ở nông thôn có kiểu làm việc truyền thống, quen với làm việc theo kiểu hành chính và mệnh lệnh; tư tưởng cứng nhắc, bị động trong công việc, chủ yếu là làm cho có hoặc ứng phó; Bản lĩnh trong việc thúc đẩy nông dân làm giàu không cao: cán bộ cơ sở có tố chất văn hóa, khoa học kĩ thuật còn thấp; Năng lực để phát triển kinh tế nông thôn còn kém, phương thức làm việc còn đơn giản. Bên cạnh đó, tác phong trong công việc của một bộ phận không nhỏ đảng viên cơ sở không sát với thực tế, ý thức phục vụ còn kém, thiếu đi tình cảm đối với quần chúng nông dân và lòng nhiệt huyết trong công tác nông thôn, nông nghiệp. Ngoài ra, theo đánh giá của chúng tôi, nhiều chi bộ cơ sở đảng, sự cố kết và gắn kết trong và ngoài chi ủy còn thấp, sức chiến đấu không cao, ý thức quản lí và nhà nước pháp quyền còn kém, sự hiệu triệu còn yếu từ đó mất đi tác dụng trong công tác tự quản nông thôn. Chính những hạn chế này là yếu tố hạn chế trong công tác điều hành, triển khai cũng như phát huy vai trò hiệu triệu, thúc đẩy tiến trình xây dựng nông thôn mới.

3.     Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực của tổ chức đảng cơ sở trong tiến trình xây dựng nông thôn mới

Cần phải tái khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện căn bản, tiên quyết để bảo đảm cho tiến trình xây dựng, kiến tạo và đạt được mục tiêu nông thôn mới. Hiện đại hóa nông thôn trong thời kì mới dưới chủ trương xây dựng nông thôn mới đề ra yêu cầu hết sức cao cho tổ chức đảng cơ sở ở nông thôn. Hạt nhân của yêu cầu này và cũng là năng lực, trình độ, nhận thức, sự tham gia của tổ chức đảng cơ sở trong tiến trình xây dựng Nông thôn mới. Do đó, chúng tôi cho rằng, trước mắt nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức đảng cơ sở là năng lực xây dựng, kĩ năng quản lí, đó là vấn đề cơ bản trong xây dựng nông thôn mới.

Từ những phân tích trên cho thấy, để phát huy vai trò và năng lực của tổ chức đảng cơ sở trong tiến trình xây dựng nông thôn mới cần phải:

Thứ nhất, đổi mới nội dung và phương thức sinh hoạt chi bộ theo hướng thiết thực, phù hợp với điều kiện và tình hình mới ở cơ sở. Trong sinh hoạt chi bộ cũng triển khai các nhiệm vụ mới, cần thực hiện tốt và lồng ghép vấn đề xây dựng nông thôn mới trong các buổi sinh hoạt chi bộ theo Hướng dẫn 05/HD-BTCTW về nội dung sinh hoạt chi bộ trong loại hình tổ chức cơ sở đảng do Ban Tổ chức Ban Chấp hành Trung ương ban hành (Số 05-HD/BTCTW, ngày 25/5/2007). Qua đó, xác lập và định hướng đúng vai trò, vị trí của mỗi tổ chức đảng cơ sở trong xây dựng nông thôn mới, xem đây là nhiệm vụ trong yếu, vừa trước mắt, vừa lâu dài và cũng là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng cơ sở trong tình hình mới.

Thứ hai, nâng cao năng lực, định hướng của tổ chức đảng cơ sở. Có thể nói, đây cũng là một trong những nhiệm vụ căn bản trong việc xây dựng và thực hiện chương trình Nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Bởi như đã nói, xây dựng Nông thôn mới không chỉ “dừng lại” ở việc thúc đẩy kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở nông thôn mà còn là cơ hội để kiện toàn bộ mấy quản lí cơ sở nông thôn, trong đó có các tổ chức đảng cơ sở (tiêu chí thứ 18 trong Bộ tiêu chí). Muốn làm được điều đó, cần đào tạo, bồi dưỡng năng lực chấp chính, năng lực định hướng chỉ đạo và làm gương cũng như năng lực phát triển nông thôn nói chung của tổ chức đảng cơ sở nói chung, của đội ngũ đảng viên cơ sở ở nông thôn nói riêng. Trong tiến trình xây dựng Nông thôn mới, tổ chức đảng cơ sở cần phải nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò trọng trách của mình, từ đó cần phải đổi mới phương thức chỉ đạo, vận hành, kiến lập các tổ tự quản nông dân có sự quản lí của chi bộ, tổ chức đảng cơ sở, chi bộ đảng cơ sở thực sự là hạt nhân trong chỉ đạo, quản lí, định hướng, thực thị chính sách liên quan đến Nông thôn mới.

Thứ ba, nâng cao trình độ và năng lực của đảng viên cơ sở. Cán bộ, đảng viên là cái gốc của công việc, xây dựng nông thôn mới không phải là ngoại lệ. Xây dựng Nông thôn mới cần xây dựng hình tượng người “nông dân mới” có lối sống văn hóa, văn minh, biết làm giàu, có ý thức bảo vệ môi trường,… thì cần phải có những “đảng viên mới” cơ sở có năng lực mới, nhận thức mới, tinh thần tiên phong đảm bảo tính định hướng và tính chỉ đạo của Đảng. Có thể nói rằng, để “hoàn thành” tiêu chí 18,19 trong bộ 19 tiêu chí không thể không đề cập đến trình độ, năng lực, nhận thức của đảng viên cơ sở. Nói cách khác những yêu cầu về tố chất lãnh đạo, tố chất văn hóa, năng lực chấp chính; ý thức chấp hành kĩ luật, tinh thần công việc, tác phong, lối sống, đạo đức là những “yêu cầu mang tính tổng hợp” đòi hỏi đảng viên phải hoàn thiện. Trong điều kiện xây dựng nông thôn mới hiện nay, trình độ lí luận và năng lực công tác của đảng viên cơ sở được đặt lên hàng đầu.

Tóm lại, xây dựng nông thôn mới là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân, mục tiêu của nó là thúc đẩy sự phát triển toàn diện nông thôn, giảm khoảng cách về chênh lệch phát triển giữa thành thị và nông thôn, làm cho đời sống của người nông dân từng bước nâng cao, sản xuất nông nghiệp từng bước hiện đại, nông thôn ngày càng thịnh vượng, đất nước ngày càng phồn vinh. Để làm được điều này, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Trong đó, vai trò của TCCSĐ là hết sức quan trọng, bởi chính TCCSĐ chính là hình tượng, là sức mạnh, là hạt nhân của Đảng ở nông thôn. Phát huy vai trò, năng lực của tổ chức đảng cơ sở sẽ là động lực vô cùng to lớn trong chiến lược xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước và nhân dân ta./.

 

 

 

 

 



[1] Nghị quyết số 26 NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định 800/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/6/2010.

[2] Tiêu chí 6 và 16 trong bộ 19 tiêu chí Nông thôn mới

[3] Số liệu từ đợt khảo sát thực tế ở một số địa phương ở Quảng Nam và Quảng Ngãi về tổ tình hình chung của chức đảng cơ sở (năm 2013) của chính tác giả.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ