VAI TRÒ CỦA HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM

 

PHÁT HUY HƠN NỮA VAI TRÒ CỦA HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM THỜI GIAN ĐẾN

Tóm tắt:

Hợp tác xã nói chung, hợp tác xã nông nghiệp kiểm mới nói riêng[1], ngày càng đóng vai trò, vị trí quan trọng trong tiến trình xây dựng nông thôn mới cũng như thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà; góp phần tích cực cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao  giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Thực tế tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua cho thấy, hợp tác xã nông nghiệp có vai trò “bà đỡ” cho các hộ nông dân liên kết nhau để chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang phát triển sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, hiệu quả cao. Bên cạnh đó, hợp tác xã nông nghiệp còn thể hiện vai trò cung ứng đầu vào cho quá trình sản xuất nông nghiệp; giải quyết đầu ra mà cụ thể là trực tiếp làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thông qua các mô hình mới.

Xuất phát từ thực trạng sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam và những đóng góp của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong trong từng lĩnh vực cụ thể, bài viết chỉ ra một số thành công, hạn chế của mô hình hợp tác xã nông nghiệp và đưa ra một số hàm ý chính sách làm cơ sở cho việc tiếp tục phát huy vai trò, vị trí của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong thời gian đến trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Từ khóa: Hợp tác xã, Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, phát triển nông nghiệp bền vững

Abtract:

Agricultural Co-operatives and New type Agricultural Co-operatives are increasingly playing an important role and position in the process of building a new countryside as well as promoting the country's agriculture; contribute positively to restructuring the agricultural sector in the direction of increasing added value and developing sustainably. In fact, in Quang Nam province in recent years, agricultural co-operatives have the role of "midwife" for farming households to link together to change from small and fragmented production to develop commodity production. Large-scale concentration, high efficiency. Besides, agricultural co-operatives also show the role of supplying inputs for agricultural production; Addressing outputs that are directly service-consuming agricultural products through new models.

Stemming from the current state of agricultural production in Quang Nam province and the contributions of the new agricultural co-operatives in each specific field, the article points out some successes and limitations of the co-operative model. agriculture and give some policy implications as a basis for continuing to promote the role and position of new agricultural co-operatives in the coming time in Quang Nam province.

Key words: Co-operative; New Type Agricultural Co-operative,
Sustainable Agricultural Development

 

 


 

1. Vài nét về tình hình sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua

1.1. Về chiến lược phát triển nông nghiệp, sản lượng và cơ cấu một số cây lương thực

Trên bình diện chung nhìn nhận, sản xuất nông nghiệp những năm qua của tỉnh Quảng Nam có bước phát triển ổn định và mức tăng trưởng khá; chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng tích cực, phát triển mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap cho giá trị kinh tế cao. Sản lượng lương thực có hạt cả nước tăng, diện tích gieo trồng lúa trong những năm gần đây có xu hướng giảm dần, theo mục tiêu chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng chất lượng, hiệu quả. Diện tích lúa có xu hướng giảm nhưng diện tích cây lâu năm tăng lên, đặc biệt là cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả. Ngành chăn nuôi có những bước chuyển dịch rõ ràng, từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, gia trại. Ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật ngày càng phổ biến, tăng hiệu quả kinh tế [7-tr.487].

Cùng với cả nước, trong thời gian vừa qua, tỉnh Quảng Nam đã có những chủ trương, chính sách nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững nền nông nghiệp [5-tr.14][2]. Chuyển đổi mô hình và phương thức sản xuất nông nghiệp gắn liền với phát triển công nghiệp, dịch vụ. Ưu tiên thúc đẩy tăng trường nhanh trong lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp gắn với công nghiệp chế biến.

Thế nhưng, bên cạnh những thành quả đạt được, nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Chẳng hạn, theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh thì tiến hành chuyển phương pháp sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn thông qua tích tụ, tập trung đất đai, liên kết, hợp tác trong sản xuất, trong đó có kinh tế trang trại, thế nhưng số liệu thống kê lại cho thấy, số lượng trang trại quá ít, cơ cấu loại hình trang trại không cân đối.

Bảng 1: Số trang trại năm 2018 chia theo các tỉnh trong Vùng

 

Tổng số

Chia ra (Đvt: trang trại)

Trồng trọt

Chăn nuôi

Nuôi trồng thủy sản

Trang trại khác

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

3777

663

2086

303

725

Thanh Hóa

966

56

676

153

81

Nghệ An

503

35

298

44

126

Hà Tĩnh

238

19

204

11

4

Quảng Bình

698

6

229

29

434

Quảng Trị

57

5

41

4

7

Thừa Thiên - Huế 

71

 

53

7

11

Ðà Nẵng 

19

1

11

1

6

Quảng Nam

139

 

114

4

21

Quảng Ngãi

66

1

50

 

15

Bình Ðịnh

142

1

129

4

8

Phú Yên

176

124

46

4

2

Khánh Hòa

157

17

114

20

6

Ninh Thuận

62

6

42

14

 

Bình Thuận

483

392

79

8

4

Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2018, Nxb. Thống kê , H. 2019, tr.494

Số liệu thống kê bảng 1 cho thấy, bình quân số trang trại trong phạm vi vùng là 270 trang trại/tỉnh. Trong đó một số địa phương có số lượng trang trại tương đối nhiều như Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Bình Thuận; Quảng Nam có số lượng trang trại ở mức trung bình (139 trang trại) nhưng, nếu đặt trong bối cảnh của một tỉnh nông nghiệp thì con số này là tương đối thấp (chỉ chiếm 3,68% toàn vùng).

Về cơ cấu trang trại, trang trại trồng trọt chiếm 0%, nuôi trồng thủy sản chỉ có 4 trang trại (chiếm 2,88% tổng số trang trại của tỉnh và 1,3% số trang trại nuôi trồng thủy sản trong vùng). Trong khi đó, trang trại chăn nuôi chiếm 82,01 % tổng số trang trại của tỉnh và chiếm 5,5% số trang trại cùng chủng loại toàn vùng. Những thông số này cũng là điểm cần lưu ý đối với một tỉnh nông nghiệp như Quảng Nam.

Bảng 2: Sản lượng lương thực có hạt (lúa, ngô)

 

Đvt: nghìn tấn

 

2010

2015

2016

2017

2018

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

7002,2 

7784,8 

7783,0 

7913,2 

7921,1

Thanh Hóa

1612,5 

1720,8 

1726,2 

1688,4 

1609,7

Nghệ An

1063,2 

1214,4 

1257,6 

1257,1 

1227,6

Hà Tĩnh

442,2 

553,7 

565,9 

471,2 

570,8

Quảng Bình

254,0 

299,1 

306,9 

310,5 

310,4

Quảng Trị

221,3 

251,1 

275,9 

257,4 

289,9

Thừa Thiên - Huế 

291,2   

325,7

330,5 

334,1 

341,0

Ðà Nẵng 

45,8 

33,8 

34,8 

33,8 

33,8

Quảng Nam

468,4 

518,6 

499,9 

520,0 

518,7

Quảng Ngãi

443,0 

483,7 

475,1 

499,7 

500,8

Bình Ðịnh

673,6 

707,6 

688,3 

715,4 

714,9

Phú Yên

364,0 

401,9 

398,7 

396,8 

417,6

Khánh Hòa

243,1 

212,7 

241,8 

268,7 

275,0

Ninh Thuận

234,8 

273,4 

257,4 

327,7 

302,6

Bình Thuận

645,1 

788,3 

724,0 

832,4 

808,3

Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2018, Nxb. Thống kê , H. 2019, tr.504-505

Quan sát số liệu bảng 2 cho thấy, sản lượng lương thực của tỉnh Quảng Nam năm 2018 ở mức trung bình, thấp hơn nhiều so với Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Thuận. Tuy nhiên, nếu chỉ so sánh nội tỉnh qua các năm (từ 2015 đến 2018) sẽ thấy sự không ổn định về sản lượng lương thực có hạt (xem đồ thị 1), thậm chí có năm rơi vào mức “âm” (năm 2016 tăng trưởng âm so với năm 2015; năm 2018 tăng trưởng âm so với năm 2017).

Hơn nữa, theo số liệu thống kê, sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người của tỉnh Quảng Nam cũng thấp hơn mức bình quân chung cả nước và Vùng (xem đồ thị 2). Từ năm 2010 đến năm 2018, mức sản lượng bình quân này luôn thấp hơn cả nước và các tỉnh trong Vùng, riêng năm 2016 là khá thấp.

Đồ thị 1 : Tỷ lệ tăng trưởng sản lượng lương thực có hạt[3]

Như vậy, nhìn chung với một tình nông nghiệp như Quảng Nam thì phương hướng chỉ đạo và thực hiện để phát triển nông nghiệp thời gian qua đã cho thấy sự nhìn nhận đúng đắn (thể hiện qua các chủ trương, chính sách, đề án phát triển) của lãnh đạo tỉnh và các địa phương trong phát triển nông nghiệp và giải quyết các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới trên địa bàn Tỉnh… Tuy nhiên, với những số liệu thống kê và phân tích ở trên cũng cho thấy còn một số bất cập trong phát triển nông nghiệp thời gian qua như cơ cấu các trang trại trồng trọt, nuôi trồng thủy sản; cơ cấu cây lương thực có hạt và tỷ lệ tăng lương thực có hạt,…

 

Đồ thị 2: Sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người (nghìn tấn)[4]

 

1.2. Về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, các mô hình nông nghiệp sạch

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, xu hướng chung của thế giới hướng đến sử dụng các sản phẩm hàng hóa an toàn, có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng cao, đặc biệt là hàng nông sản sản xuất hữu cơ, VietGap hay ứng dụng công nghệ biến đổi gen [2-tr.556]….Trước xu thế đó, quan điểm của Đảng đã xác định: “Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao gái trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu” [3-tr.92-93]. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi để sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Đồng thời, “đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân.

Trong thời gian qua, tỉnh Quảng Nam đã tiến hành triển khai quy hoạch các vùng chăn nuôi tập trung; phát triển các gia trại, trang trại (giảm dần chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán trong khu dân cư). Ưu tiên phát triển chăn nuôi khép kín, ứng dụng công nghệ cao. Triển khai phương án sắp xếp các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, đặc biệt là các khu giết mổ tập trung; kiện toàn mạng lưới thú y cơ sở. Theo đó, điểm nhấn là Kế hoạch số 2548/KH-UBND ngày 09/5/2019 của UBND tỉnh về Phát triển Hợp tác xã, liên hiệp Hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả gắn với liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Trong thời gian qua, theo chủ trương chung của tỉnh, các địa phương mở rộng diện tích trồng rau, củ, quả các loại, cây lạc và các loại cây màu khác và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất. Từ đó từng bước hình thành một số vùng nuôi trồng thủy sản công nghệ cao để tăng năng suất và giá trị sản phẩm, tập trung tại các huyện/thành phố như Núi Thành, Thăng Bình, Phú Ninh, Tam Kỳ. Bên cạnh đó, mô hình phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sinh thái gắn với phục vụ cho nhu cầu du lịch tại thành phố Hội An. Ngoài ra, Quảng Nam còn khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao, lấy doanh nghiệp làm hạt nhân để hỗ trợ ứng dụng khoa học và công nghệ theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ. Đồng thời, thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp (thu mua, chế biến sản phẩm) và nhóm hộ (sản xuất, cung ứng nguyên liệu).

Để hướng đến một nền nông nghiệp hiện đại, Quảng Nam không khuyến khích sản xuất riêng lẻ quy mô hộ. Tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá, quy mô tập trung, ứng dụng công nghệ cao, tự động hóa trong sản xuất rau quả. Thúc đẩy phát triển rau, củ, quả sạch theo mô hình hữu cơ. Khuyến khích nông hộ liên kết với doanh nghiệp sản xuất theo chuỗi, ổn định từ đầu vào cho đến đầu ra. Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, tiêu chuẩn VietGap. Đầu tư mạnh vào khâu bảo quản sau thu hoạch, chế biến để đảm bảo nguồn dinh dưỡng của sản phẩm. Kêu gọi doanh nghiệp đầu tư chế biến, đóng gói và xây dựng thương hiệu rau quả.

Về giải pháp kỹ thuật/công nghệ, tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, tiêu chuẩn VietGap, đặc biệt là công nghệ sinh học, vi sinh, giống mới, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến giúp tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, phòng chống dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo đó, Quảng Nam chú trọng pháp triển đàn bò lai, hình thành các khu chăn nuôi bò tập trung, đầu tư công nghệ hiện đại, xây dựng chuồng trại, cơ sở vật chất khác. Áp dụng tiêu chuẩn VietGap trong chăn nuôi trang trại và gia trại. Tổ chức phát triển chăn nuôi trang trại gắn với bảo vệ môi trường, theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp với công nghệ tiên tiến, kiểm soát dịch bệnh gắn với vệ sinh an toàn thực phẩm. Áp dụng công nghệ tiên tiến trong xử lý nhằm tái sử dụng chất thải từ gia súc (phân bón sinh học). Xây dựng giải pháp quản lý an toàn dịch bệnh theo hướng cảnh báo sớm. Xây dựng tổ/hợp tác xã sản xuất chăn nuôi bò theo hướng hàng hoá với việc kết hợp nhiều hộ chăn nuôi với nhau. Hình thành các chuỗi liên kết sản xuất, cung cấp thực phẩm an toàn có thương hiệu trong chăn nuôi. Thành lập các hội ngành hàng, hiệp hội chăn nuôi và hợp tác xã nhằm vừa sản xuất vừa gắn với tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đáng ghi nhận thì vẫn còn nhiều điểm hạn chế, vướng mắc để nông nghiệp công nghệ cao thật sự có “chỗ đứng” và “tiếng nói” trong nền nông nghiệp Quảng Nam. Nói cách khác, nông nghiệp công nghệ cao ở Quảng Nam vẫn còn ở trạng thái tiềm năng, cơ hội [1-tr.135]. Muốn “tiềm năng” và “cơ hội” biến thành hiện thực thì trong thời gian đến, Quảng Nam phải có chiến lược phát triển vùng nguyên liệu có khả năng cạnh tranh cao, gắn với công nghiệp chế biến, khuyến khích việc hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp (cây cao su ở Hiệp Đức, Nam Giang, Phước Sơn, Đông Giang, Tây Giang, Nông Sơn, Thăng Bình), cây dược liệu (sâm Ba Kích ở vùng núi phía Tây Bắc, sâm Ngọc Linh và quế Trà My ở vùng núi phía Tây Nam), các vùng chăn nuôi (Tây Giang, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình), đánh bắt thủy hải sản xa bờ ở vùng Đông (Hội An, Điện Bàn, Tam Kỳ, Núi Thành) với chất lượng cao, năng suất cao để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Phát triển nông nghiệp - nông thôn và tăng cường kết nối toàn diện giữa các vùng miền và đô thị - nông thôn, tạo ra mối quan hệ tương hỗ trong phát triển theo hướng bền vững và cân bằng trên địa bàn tỉnh.

2. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong phát triển nền nông nghiệp Quảng Nam thời gian qua

 

2.1. Bức tranh chung về hợp tác xã nông nghiệp tại Quảng Nam

So với 10 năm trước đây, hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã thay đổi với một diện mạo mới, các hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng đa dạng. Nếu như các hợp tác xã nông nghiệp trước đây chỉ làm các dịch vụ như thủy lợi, bảo vệ thực vật, thu hoạch… thì hiện nay các hợp tác xã ở lĩnh vực này đã vươn xa hơn, tập trung đầu tư máy móc, thiết bị để tổ chức sản xuất lúa giống, mở rộng thêm các ngành nghề phi nông nghiệp để phát triển sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập và tạo dựng niềm tin với xã hội về mô hình hợp tác xã [8-tr.9].

Có được điều đó, trước tiên là do các cấp ủy đảng và chính quyền đã có sự nhận thức cụ thể hơn, hiểu rõ về bản chất vai trò của hợp tác xã nông nghiệp, một số địa phương đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế tập thể, giao chỉ tiêu thành lập mới hợp tác xã một cách cụ thể và lấy đó làm cơ sở, tiêu chí đánh giá, xếp loại cuối năm[5]. Từ đó làm tiền đề để hợp tác xã nông nghiệp đã dần xác lập được vị trí, vai trò của mình trong xã hội và thu hút được lực lượng trẻ có trình độ, tâm huyết tham gia; nhạy bén hơn trong việc tiếp cận với những cơ chế quản lý mới, thích ứng với thị trường; đồng thời có đóng góp quan trọng trong chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo, thực hiện chương trình OCOP, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị….

Do nhu cầu phát triển của xã hội và hiệu quả từ công tác chỉ đạo, tuyên truyền phát triển kinh tế tập thể; những năm qua, tình hình phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có chuyển biến tích cực. Số lượng hợp tác xã thành lập mới năm sau cao hơn năm trước (thể hiện ở số liệu thống kê bên dưới); quy mô tổ chức hoạt động của hợp tác xã được mở rộng; nhiều hợp tác xã đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mở thêm nhiều ngành nghề mới, ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác quản lý điều hành cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ khi Luật Hợp tác xã 2012 có hiệu lực cùng với sự ra đời của các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đã tạo điều kiện thuận lợi cho các mô hình hợp tác xã mới xuất hiện. Nhiều hợp tác xã do những thanh niên điều hành, quản lý hoạt động đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Theo thống kê, đến tháng 6/2019, toàn tỉnh Quảng Nam có 277 hợp tác xã nông nghiệp (tăng 159 hợp tác xã so với năm 2010)[6] [4-tr.10] hoạt động trên các lĩnh vực dịch vụ chủ yếu: Thủy lợi, liên kết sản xuất giống, cơ giới hóa làm đất, thu hoạch, cung ứng vật tư nông nghiệp,... Hiện nay, các hợp tác xã tiếp tục thực hiện công tác tinh gọn bộ máy, đổi mới phương thức quản lý, điều hành; đổi mới phương án sản xuất - kinh doanh; công tác hạch toán và phân phối lãi, xử lý những vấn đề còn tồn đọng về vốn, tài sản và cổ phần của thành viên đạt được những hiệu quả nhất định. Hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp nhìn chung đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp của thành viên và nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Nhiều hợp tác xã nông nghiệp đã tham gia thực hiện tái cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp như liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, tham gia Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) nhằm gia tăng giá trị, với mục tiêu cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa chất lượng cao mang tính đặc trưng, lợi thế của từng địa phương. Bên cạnh đó, các hợp tác xã nông nghiệp cùng với chính quyền địa phương tham gia trong việc xây dựng các công trình như giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, kiên cố hóa kênh mương, tích tụ đất đai… góp phần thực hiện tốt chương trình xây dựng nông thôn mới ở nhiều địa phương.

Theo số liệu Báo cáo 10 năm, tỉnh Quảng Nam đã hỗ trợ kinh phí đào tạo đại học, cao đẳng cho 113 cán bộ hợp tác xã, tổng kinh phí hỗ trợ là 404.840.000 đồng. Hỗ trợ kinh phí thành lập mới các hợp tác xã  2.254.200.000 đồng ; Chính sách khoa học - công nghệ và xúc tiến thương mại: Từ năm 2012 - 2014 có 49 lượt hợp tác xã có dự án được hỗ trợ với tổng số tiền 2.619 tỷ đồng ; Chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ quản lý chủ chốt làm việc lâu năm trong hợp tác xã khi nghỉ việc: Từ năm 2012-2014, tổng kinh phí đã hỗ trợ đối với đội ngũ quản lý chủ chốt làm việc lâu năm trong hợp tác xã khi nghỉ việc là 781.589.000 đồng cho 54 người ; Chính sách thu hút: Thu hút người về làm việc tại hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, từ năm 2015-2018 đã hỗ trợ kinh phí thu hút cho 18 người về làm việc tại hợp tác xã, tổng kinh phí hỗ trợ là 1.478.412.000 đồng ; Chính sách tín dụng: Đã hỗ trợ cho 3 hợp tác xã, số tiền 119.433.000 đồng ; Chính sách hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp: Hỗ trợ kinh phí khi hợp tác xã đã nộp ngân sách Nhà nước thuế thu nhập doanh nghiệp cho hợp tác xã đầu tư ứng dụng công nghệ là 1.670.250.000 đồng ; Chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng: Tổng kinh phí hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho 48 hợp tác xã số tiền 9.523.000.000 đồng ; Chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ quản lý chủ chốt làm việc lâu năm trong hợp tác xã khi nghỉ việc: Tổng kinh phí đã hỗ trợ đối với đội ngũ quản lý chủ chốt làm việc lâu năm trong hợp tác xã khi nghỉ việc là 819.552.000 đồng cho 53 người ; Chính sách tiếp cận vốn và Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã: ngân sách tnh h tr lãi sut sau đầu tư phn chênh lch gia lãi sut thc tế cho vay ca ngân hàng thương mi (do ngân hàng Nhà nước quy định) với mức lãi suất cho vay của Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã (tỉnh hoặc trung ương), đến năm 2018 đã hỗ trợ được 120 triệu đồng lãi suất chênh lệch cho các hợp tác xã [8-tr.11].

Bênh cạnh đó, thực hiện Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ, trong 02 năm (năm 2018 và năm 2019), UBND tỉnh Quảng Nam đã hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng cho 10 hợp tác xã nông nghiệp với tổng số tiền 2,2 tỷ đồng từ nguồn kinh phí Chương trình Tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai,di dân tái định cư; UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành văn bản triển khai thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở hợp tác xã nông nghiệp theo Quyết định số 1231/QĐ-BNN-KTHT ngày 09/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, trong năm 2018 đã hỗ trợ 555 triệu đồng cho công tác tăng cường nguồn nhân lực đối với hợp tác xã. Mục tiêu đặt ra của việc đưa cán bộ trẻ có trình độ cao đẳng, đại học về làm việc có thời hạn tại hợp tác xã nông nghiệp không chỉ để giải quyết vấn đề việc làm, tạo thu nhập cho một số thanh niên mà là dịp để các cán bộ trẻ có trình độ, vận dụng kiến thức đã học để khởi nghiệp trên lĩnh vực nông nghiệp ngay tại quê hương.

Nhìn chung trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, số lượng hợp tác xã nông nghiệp thành lập không ngừng tăng qua các năm với nhiều mô hình mới, cách làm hiệu quả. Nhiều hợp tác xã tiếp tục được kiện toàn, củng cố lại bộ máy hoạt động, quản lý để phù hợp hơn với tình hình mới, chất lượng thành viên được nâng lên, nổi bậc nhất là mô hình hợp tác xã nông nghiệp do thanh niên trẻ chọn mô hình khởi nghiệp. Nội dung hoạt động của các hợp tác xã được mở rộng với quy mô ngày càng lớn, dịch vụ đa dạng, đáp ứng nhu cầu của các thành viên và nông dân. Đặc biệt, hiện nay với yêu cầu tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tỉnh đã có trên 78 hợp tác xã nông nghiệp tham gia hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và 19 hợp tác xã đã là chủ thể của 24 sản phẩm OCOP của tỉnh đạt từ 3 - 4 sao; 22 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và kinh doanh. Nhiều hợp tác xã nông nghiệp có lãi khá đã bắt đầu trích lập được các quỹ theo quy định, nhất là quỹ đầu tư phát triển để mở rộng liên kết, liên doanh trong sản xuất.

2.2. Một số thành công và hạn chế của mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới tại Quảng Nam

2.2.1. Thành công

Các hợp tác xã đã tập trung đáp ứng các dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp cho thành viên, hướng dẫn thành viên sản xuất theo kế hoạch, theo lịch thời vụ hằng năm. Các hợp tác xã ở lĩnh vực này đã không ngừng đổi mới phương thức quản lý, điều hành, đổi mới tư duy trong kinh doanh nhằm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Tùy theo năng lực và điều kiện cụ thể, các hợp tác xã tại Quảng Nam đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ với nhiều quy mô, cấp độ khác nhau như tổ chức liên doanh liên kết sản xuất, làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho thành viên....

Về cơ bản, các hợp tác xã đã tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế thành viên và hộ gia đình, từng bước khắc phục một số mặt hạn chế của kinh tế hộ về vốn, công cụ, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất; hỗ trợ nông dân hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh (trong đó có sản xuất và kinh doanh nhiều loại giống lúa), thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu nhập cho thành viên và hộ gia đình; góp phần xây dựng xã nông thôn mới, tái cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp, thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), làm động lực hỗ trợ thúc đẩy phát triển nông nghiệp Quảng Nam.

Thực tế cho thấy, không ít hợp tác xã đã chú trọng đầu tư ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa nông nghiệp, mở thêm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ thiết thực cho lợi ích kinh tế thành viên và lợi ích cộng đồng. Tiêu biểu như hợp tác xã Nông nghiệp Ái Nghĩa, hợp tác xã Đại Hiệp, hợp tác xã Đại Quang, huyện Đại Lộc; hợp tác xã Điện Phước 1, hợp tác xã Điện Ngọc 1, hợp tác xã Điện Hồng 2, thị xã Điện Bàn; hợp tác xã Duy Hòa 2, hợp tác xã Duy Thành, hợp tác xã Duy Đại Sơn, huyện Duy Xuyên; hợp tác xã Hương An, huyện Quế Sơn; hợp tác xã Bình Đào, huyện Thăng Bình; hợp tác xã Thực phẩm sạch Phú Ninh, huyện Phú Ninh; hợp tác xã An Phú, huyện Núi Thành, hợp tác xã Rau sạch Trường Xuân, thành phố Tam Kỳ, hợp tác xã Nấm Nhì Tây, huyện Hiệp Đức...

Tính đến thời điểm 30/11/2019, tỉnh Quảng Nam có 85 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong các xã đạt chuẩn nông thôn mới đều có hợp tác xã đạt tiêu chí thứ 13, hợp tác xã hoạt động hiệu quả và đúng luật. Trong quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam, các hợp tác xã có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ nâng cao thu nhập cho nông dân mà còn góp phần làm thay đổi căn bản diện mạo nông thôn thời kỳ hội nhập [6-tr.17]. Thực tiễn xây dựng nông thôn mới tại Quảng Nam thời gian qua cho thấy, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã là nhân tố không thể thiếu trong quá trình thúc đẩy xây dựng tiến trình nông thôn mới một cách hiệu quả, thực chất.

Ðặc biệt, trong những năm gần đây, với yêu cầu tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế hợp tác, hợp tác xã đã có bước phát triển mới về số lượng, hiệu quả; hoạt động được nâng cao, với đủ các loại hình dịch vụ thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở khu vực nông thôn phát triển. Hợp tác xã đã phát huy được vai trò tập hợp, vận động, thay đổi cách nghĩ, cách làm cho bà con nông dân, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất và nhất là đã thực hiện tốt việc liên doanh, liên kết, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản.

Trên một số lĩnh vực khác, hợp tác xã đã mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều ngành nghề, phát triển kinh doanh tổng hợp, đầu tư trang thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, đóng góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, giải quyết nhu cầu, lợi ích chính đáng của thành viên và người lao động. Bên cạnh đó, có không ít hợp tác xã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị trường, tạo sự liên kết, hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế cho thành viên, góp phần nâng cao đời sống của người dân và bộ mặt nông thôn trong xây dựng nông thôn mới, phát triển nền nông nghiệp của Quảng Nam.

Đối với Chương trình OCOP, hầu hết các hợp tác xã tham gia chương trình đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nhất là phát triển kinh tế vùng nông thôn và khôi phục các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm làng nghề trên địa bàn tỉnh Quảng nam. Với vai trò của mình, các hợp tác xã tham gia chương trình này đã không ngừng vận động, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm nhằm đưa ra thị trường những sản phẩm đạt tiêu chuẩn, chất lượng mang thương hiệu của hợp tác xã và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Có thể nói, đây là cơ hội để các hợp tác xã không chỉ khôi phục, phát triển các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm mới mà còn mở ra cơ hội cho các hợp tác xã tiếp cận những kỹ năng quản lý, điều hành mới, ứng dụng công nghệ mới trong tổ chức sản xuất và phát triển kinh doanh.

2.2.2. Hạn chế, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình quản lý, phát triển và hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã nông nghiệp ở Quảng Nam vẫn có một số tồn tại, hạn chế như sau:

Thứ nhất, một số hợp tác xã nông nghiệp tuy đã chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012 nhưng phương thức hoạt động vẫn theo mô hình hợp tác xã kiểu cũ; còn lúng túng trong định hướng hoạt động, trong đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh; tổ chức bộ máy, con người làm việc còn những hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, năng lực nội tại của hợp tác xã vẫn còn nhiều bất cập như một số hợp tác xã thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao; đội ngũ cán bộ quản lý đa số tuổi cao, còn nặng tư duy hợp tác xã kiểu cũ, chưa năng động với thị trường. Cơ sở vật chất xuống cấp, công nghệ sản xuất lạc hậu.

Thứ hai, một số hợp tác xã nông nghiệp được hình thành nhưng hoạt động không theo Luật Hợp tác xã năm 2012; một số nơi HTX được thành lập song lại sớm rơi vào tình trạng ngừng hoạt động hoặc không còn hoạt động.

Thứ ba, đa số các hợp tác xã nông nghiệp ở Quảng Nam tập trung hoạt động đối với các dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, mà chưa quan tâm đến dịch vụ đầu ra, số hợp tác xã thực hiện việc bao tiêu nông sản cho nông dân còn ít; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác xã với thành viên, chưa tạo sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp tham gia liên kết, hợp tác đầu tư, dẫn đến hiệu quả hoạt động còn hạn chế, lợi ích mang lại cho thành viên chưa cao, nên người nông dân chưa thật sự gắn bó, mặn mà với hợp tác xã nông nghiệp.

Thứ tư, việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân - các tổ chức đại diện nông dân - các doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu đa dạng, nội dung liên kết chủ yếu tập trung trong việc sản xuất lúa giống, lúa lai và một số liên kết về sản xuất rau, đậu. Các liên kết mới đa số chỉ mới bắt đầu triển khai và chủ yếu dựa trên nguồn lực hỗ trợ từ phía Nhà nước.

Thứ năm, việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất-kinh doanh còn hạn chế, quy mô, mức độ áp dụng chưa cao do đó sản phẩm tạo ra chưa có tính đột phá, hiệu quả cao. Công tác thực hiện báo cáo quyết toán tài chính hằng năm chưa đảm bảo theo quy định tại theo Thông tư  số 24/2017/TT-BTC ngày 28/3/2017 của Bộ Tài Chính nhằm hướng dẫn chế độ kế toán HTX, Liên hiệp HTX, một số HTX còn thực hiện chế độ kế toán theo các văn bản hướng dẫn của Luật Doanh nghiệp.

Thứ sáu,ng tác xác định tư cách thành viên đối với các hợp tác xã chuyển đổi từ mô hình hợp tác xã kiểu cũ sang kiểu mới chưa dứt khoát, cụ thể; vẫn còn tì hợp tác xã hợp tác xã; thành viên đi khỏi nơi cư trú, thành viên đã chết... nhưng vẫn còn trong danh sách thành viên hợp tác xã. Việc phát triển thành viên mới ở các hợp tác xã gặp khó khăn; nhiều hợp tác xã chưa thực sự phát huy tốt tiềm năng, lợi thế của mình; chưa thể hiện đầy đủ vai trò, vị trí quan trọng của hợp tác xã trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và tham gia các chương trình mục tiêu; lợi ích hợp tác xã đem lại cho thành viên chưa cao.

2.2.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

-  Nguyên nhân khách quan

+ Nhiều văn bản có sự chồng chéo việc quản lý nhà nước về kinh tế tập thể giữa các cơ quan Trung ương với nhau; giữa các cơ quan ở tỉnh, nhất là ở cấp huyện còn bất cập dẫn đến việc triển khai thực hiện gặp một số khó khăn.

+ Công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, cơ chế chính sách chưa được thường xuyên, còn mang tính pha đợt.

+ Đóng góp GDP của khu vực kinh tế tập thể quá ít so với các lĩnh vực kinh tế khác.

+ Xã hội có sự nhìn nhận chưa toàn diện, tích cực về lĩnh vực kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã nông nghiệp.

- Nguyên nhân chủ quan

+ Năng lực nội tại của một số hợp tác xã nông nghiệp chưa thật sự vững mạnh, đội ngũ cán bộ tuy có sự thay đổi nhưng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Một số hợp tác xã nông nghiệp chưa năng động, nhạy bén trong phát triển kinh doanh, chưa mạnh dạn thực hiện liên doanh liên kết, mở thêm ngành nghề mới, chất lượng các dịch vụ chưa cao.

+ Số thành viên hợp tác xã nông nghiệp tuy đông nhưng đa phần cao tuổi nên việc đóng góp, xây dựng có hạn chế (thành viên từ hợp tác xã cũ chuyển đổi sang). Số đông người dân, do thói quen sản xuất nhỏ lẻ nên khi tham gia vào hợp tác xã chưa thực sự mạnh dạn trong việc đầu tư, góp vốn, đóng góp công sức.

+ Cấp ủy đảng và chính quyền ở một số địa phương, nhất là cấp xã còn chưa chú trọng đến lĩnh vực kinh tế tập thể, chưa có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát để triển khai thực hiện. Tình trạng cấp ủy cơ sở và chính quyền thiếu quan tâm, định hướng nhằm tạo điều kiện cho hợp tác xã nông nghiệp phát triển, có nơi can thiệp quá sâu vào hoạt động nội bộ của hợp tác xã nông nghiệp. Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về kinh tế hợp tác, hợp tác xã nói chung, hợp tác xã nông nghiệp nói riêng theo Luật HTX 2012 có nơi còn chưa đầy đủ.

+ Công tác tư vấn, hỗ trợ phát triển hợp tác xã nông nghiệp triển khai chưa đồng đều giữa các địa phương trong tỉnh, nhất là các huyện miền núi.

3. Một số giải pháp phát huy vai trò tích cực của hợp tác xã nông nghiệp kiểm mới đối với nền nông nghiệp tỉnh Quảng Nam thời gian đến

Thứ nhất, làm tốt công tác tham mưu để thực hiện các chủ trương, chính sách, kế hoạch của Trung ương, của tỉnh về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã

- Bám sát Kết luận của Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể của Ban Thường vụ Tỉnh ủy để chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan, UBND cấp huyện xây dựng kế hoạch tuyên truyền phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã, nhất là xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới.

- Thực hiện quy chế phối hợp với các cơ quan liên quan trong quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 2047/QĐ-UBND ngày 24/6/2019 của UBND tỉnh Quảng Nam để tham mưu Tỉnh ủy, HĐND, UBND ban hành chủ trương, nghị quyết mới về các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã X để bổ sung, sửa đổi và thay thế một số Nghị quyết hết hiệu lực vào năm 2020.

Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức

- Các cấp ủy, chính quyền các cấp trên đia bàn tỉnh Quảng Nam cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động có hiệu quả trong xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã và công tác triển khai thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ giúp tổ hợp tác, hợp tác xã đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt kết quả.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã đến các cấp, các ngành, các địa phương và các tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức tuyên truyền phù hợp.

- Định kỳ hằng năm có sơ kết, tổng kết về kết quả phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã; đồng thời giới thiệu, tham quan học tập và tuyên dương các mô hình hợp tác xã kiểu mới, cách làm hiệu quả để nhân rộng trên địa bàn tỉnh.

Thứ ba, công tác vận động phát triển thành lập mới tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

- Tiến hành tổ chức Hội nghị cho cán bộ chủ chốt cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể cấp huyện, cấp xã để tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, cơ chế, chính sách và giới thiệu hợp tác xã có mô hình mới, điển hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao cho các địa phương học tập làm theo.

- Tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác vận động phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã trên địa bàn tỉnh để nhân rộng những các làm hay, hiệu quả.

Thứ tư, đẩy mạnh triển khai thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã kiểu mới

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác tư, vấn hỗ trợ cho hợp tác xã, chú trọng việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hợp tác xã; xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh của hợp tác xã; giúp hợp tác xã tổ chức liên doanh, liên kết giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp; tiếp cận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ưu đãi từ các cơ chế, chính sách của Trung ương, của tỉnh.

- Tổ chức cho các hợp tác xã thành viên tham quan học tập kinh nghiệm; đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường cho hợp tác xã.

- Phát huy vai trò, hiệu quả của Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã X tỉnh trong công tác trợ vốn cho tổ hợp tác, hợp tác xã đầu tư mở rộng sản xuất ổn định và phát triển.

- Thường xuyên triển khai, giới thiệu giúp các tổ hợp tác, hợp tác xã tiếp cận các cơ chế chính sách hỗ trợ của Trung ương và Tỉnh.

- Tổ chức các lớp dạy nghề cho thành viên, người lao động trong hợp tác xã  nhằm giúp cho thành viên và người lao động có việc làm ổn định, tăng thu nhập.

Thứ năm, tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã

- Lãnh đạo củng cố tổ chức bộ máy đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng theo hướng chuyên nghiệp; khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động của Quỹ thời gian qua; chú trọng xây dựng đội ngũ bộ nhân viên, cộng tác viên để thực hiện nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao trong công tác tư vấn, hỗ trợ và lập hồ sơ vay vốn ưu đãi giúp các tổ hợp tác, hợp tác xã dễ tiếp cận và thực hiện có hiệu quả.

Thứ sáu, công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế được tăng cường

- Tiếp tục duy trì mối quan hệ với các tổ chức quốc tế như ILO, Agriterra... để tranh thủ nguồn lực, kiến thức và chương trình tập huấn, đào tạo về năng lực quản trị hợp tác xã, những kinh nghiệm về xây dựng và phát triển hợp tác xã của các nước tiên tiến như Hà Lan, Nhật Bản... để thúc đẩy phát triển hợp tác xã của tỉnh thời gian đến.

- Tích cực mở rộng tìm kiếm các tổ chức, đối tác mới giúp cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã tỉnh nhà phát triển bền vững.

Thứ bảy, phát huy vai trò, nhiệm vụ của tổ chức Liên minh hợp tác xã tỉnh

- Củng cố tổ chức bộ máy của Liên minh hợp tác xã đủ mạnh để nâng cao năng lực hoạt động trong công tác tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ giúp cho các tổ hợp tác, hợp tác xã tổ chức sản xuất kinh doanh, nhất là gắn sản xuất theo chuỗi giá trị với tiêu thụ sản phẩm ổn định, hiệu quả.

- Tăng cường công tác tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng về quản trị hợp tác xã, tay nghề lao động cho thành viên hợp tác xã nhằm nâng cao năng lực tham gia các chương trình mục tiêu như: OCOP, tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

- Tập trung đổi mới phương thức hoạt động theo hướng kết nối với các hợp tác xã thành viên và các địa phương. Nâng cao vai trò của mỗi Ủy viên Ban Chấp hành, Thường trực và các đơn vị trực thuộc Liên minh hợp tác xã tỉnh trong công tác tham mưu, thực hiện để xây dựng phát triển knh tế hợp tác, hợp tác xã của tỉnh không ngừng phát triển.

- Xây dựng Liên minh hợp tác xã của tỉnh thật sự là chỗ dựa tin cậy của các đơn vị thành viên.

4. Kết luận

Ngày 11 tháng 4 năm 1946, trong “Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam”, Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở thấy rõ tầm quan trọng của người nông dân, ngành nông nghiệp đã nhấn mạnh: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế ta lấy canh nông làm gốc... Nông dân giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã…”. Gần 75 năm trôi qua, câu nói ấy vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là trong bối cảnh cả nước ra sức thực hiện Mục tiêu quốc gia về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Đề án phát triển 15 nghìn Hợp tác xã. Từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam cho thấy, nếu có chính sách đúng, định hướng đúng cộng với sự quyết tâm, nỗ lực của các cấp và hệ thống chính trị, sự đồng thuận của người dân thì hợp tác xã sẽ phát huy tốt vai trò của mình, từng bước đi vào cuộc sống, nâng cao thu nhập cho thành viên, thúc đẩy nền nông nghiệp địa phương theo hướng thực chất, bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Phạm Đi (2016), Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

2.     Phạm Đi (2020), Xã hội học với lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

3.     Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia.

4.     Liên minh Hợp tác xã tỉnh Quảng Nam (2019), Báo cáo Tổng kết nhiệm kỳ V, (2015 – 2020) và  phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ VI (2020-2025).

5.     Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam (2018), Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh quảng nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030

6.     Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam (2019), Báo cáo Định hướng hiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nông nghiệp giai đoạn 2021-2030.

7.     Tổng cục thống kê (2019), Niên giám thống kê năm 2018, Nxb Thống kê, Hà Nội.

8.     Tỉnh ủy Quảng Nam (2018), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh.

9.     UBND tỉnh Quảng Nam (2013), Đề án Phát triển sản xuất nông, lâm sản góp phần giảm nghèo khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2014-2016 và định hướng đến năm 2020.



[1] Khái niệm Hợp tác xã kiểu mới được hiểu là loại hình hợp tác xã ra đời và vận hành theo Luật Hợp tác xã kiểu mới (năm 2012). Ở đây, chúng tôi xin nhấn mạnh tính chất, quy mô, phạm vi hoạt động, mô hình, phương thức tổ chức của Hợp tác xã kiểu mới đã có nhiều nét “mới”, đặt biệt trong Bộ tiêu chí nông thôn mới thì tiêu chí số 13 có quy định về vai trò của hợp tác xã và tổ hợp tác. Trên bình diện nào đó mà nói, đó vừa là khẳng định vai trò, vị trí của hợp tác xã trong tiến trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; vừa đặt “trọng trách” nhiệm vụ cho mỗi địa phương đối với việc phát huy vai trò của hợp tác xã kiểu mới trong chiến lược phát triển nông nghiệp địa phương.

[2] Sau đây gọi tắt là Đề án tái cơ cấu nông nghiệp.

[3] Tác giả xử lý từ số liệu của Tổng cục thống kê

[4] Từ số liệu của Tổng cục thống kê, Sđd, tr.506, 507.  Tác giả xử lý lại và biểu diễn bằng đồ thị.

[5] Quyết định số 14/2009/QĐ-UBND ngày 03/6/2009 của UBND tỉnh Ban hành một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ; Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày 24/12/2014 của UBND tỉnh ban hành một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết số 124/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 của HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã hỗ trợ các THT, HTX.

[6] Dự kiến đến 31/12/2020, toàn tỉnh có khoảng 393 HTX NN.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ