NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO Ở TRUNG QUỐC – MỘT SỐ KINH NGHIỆP ĐỐI VỚI VIỆT NAM

 

THỰC TRẠNG VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO Ở TRUNG QUỐC – MỘT SỐ KINH NGHIỆP ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Tóm tắt:

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có những động thái quyết liệt để thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp của mình bằng các chủ trương, chính sách, cơ chế trong đó có vấn đề hiện đại hóa nền nông nghiệp theo hướng bền vững gắn với áp dụng công khoa học công nghệ vào nền nông nghiệp; kiến tạo và phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, từng bước tăng hàm lượng khoa học vào trong từng sản phẩm nông nghiệp. Với quyết tâm đó, Trung Quốc đã có những thành công lớn về lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, cũng tồn tại, nảy sinh nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, nhìn nhận. Thành tựu và thách thức của Trung Quốc trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao là những bài học kinh nghiệp là gợi mở tốt cho Việt Nam về vấn đề hiện đại hóa nền nông nghiệp nước nhà.

Từ khóa: nông nghiệp, khu nông nghiệp công nghệ cao, bài học kinh nghiệm

1. Đặt vấn đề

Trung Quốc là một quốc gia nông nghiệp, chính vì thế, nông nghiệp được xác định là “mạch sống”, là nền tảng cơ bản của kinh tế quốc dân và trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia này. Do đó, hiện đại hóa nền nông nghiệp và giải quyết vấn đề tam nông[1] là nhiệm vụ trọng yếu mang tầm quốc gia của Trung Quốc. Hơn 40 năm tiến hành công cuộc Cải cách mở cửa, nền nông nghiệp Trung Quốc đạt được nhiều thành quả to lớn, trong đó có việc đưa khoa học, công nghệ cao vào lĩnh vực nông nghiệp. Tri thức khoa học được áp dụng vào nông nghiệp, hàm lượng khoa học công nghệ kết tinh trong từng sản phẩm nông nghiệp, trình độ hiểu biết của người nông dân về vai trò, vị trí của khoa học công nghệ để từng bước áp dụng vào các lĩnh vực nông nghiệp hiện hữu ngày càng được nâng cao.

Tuy vậy, trong điều kiện tăng cường áp dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp trong khi trình độ làm chủ khoa học công nghệ còn hạn chế, nguồn tài nguyên hữu hạn, cơ sở hạ tầng nông nghiệp còn thiếu thốn, đất canh tác dành cho nông nghiệp ngày càng giảm (do áp lực và tốc độ đô thị hóa quá mức), thu nhập của người nông dân chậm được cải thiện. Chính vì thế, việc xem khoa học công nghệ là động lực cơ bản để thúc đẩy nền nông nghiệp; coi trọng và tăng cường giải quyết vấn đề tam nông; đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia là nền tảng, chiến lược và nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của lãnh đạo Trung Quốc[2]. Không phải ngẫu nhiên, “Văn kiện số 1”[3]  của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2012 đã đề cập đến chủ đề khoa học kỹ thuật và sáng tạo cũng như định vị chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật nông nghiệp của quốc gia này.

Thực chất của vấn đề phát triển khoa học công nghệ và công nghệ cao về nông nghiệp của Trung Quốc là: vừa coi trọng sản lượng vừa coi trọng chất lượng, vừa có giống tốt vừa có phương pháp tốt, vừa cơ giới hóa nông nghiệp vừa đảm bảm môi trường sinh thái nông thôn, vừa đảm bảo thị trường trong nước, vừa hướng đến xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp đạt chuẩn sang thị trường ngoài nước; vừa đảm bảo vấn đề an ninh lương thực, vừa đảm bảo tính xã hội, tính công cộng, tính hài hòa, tính chiến lược[4].

Nông nghiệp là nền tảng cơ bản của nền kinh tế quốc dân, áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao vào nông nghiệp được Trung Quốc xác định là “cơ bản của cơ bản”, “trọng tâm của trọng tâm”, “nền tảng của nền tảng”, “chiến lược của chiến lược”. Nói cách khác, chỉ có phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, áp dụng công nghệ cao vào các khâu, mắc xích chuỗi giá trị nông nghiệp mới đảm bảo sự phát triển ổn định của nền nông nghiệp trong tình hình mới.

2. Thực trạng phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc

Quan sát thực tiễn ở Trung Quốc mấy năm gần đây cho thấy, phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở quốc gia này chủ yếu tập trung vào việc sáng tạo khoa học kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp, mở rộng phạm vi áp dụng, chuyển hóa thành quả của khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp, mở rộng phạm vi áp dụng khoa học kỹ thuật cao vào các lĩnh vực, hình thành các khu kỹ thuật cao về nông nghiệp[5], đầu tư cho việc nghiên cứu, áp dụng khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp, huấn luyện các phương pháp, kỹ năng áp dụng công nghệ cao cho nông nghiệp.

2.1. Sáng tạo khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp

Hiện đại hóa và quốc tế hóa nền nông nghiệp là xu thế tất yếu, do đó, sáng tạo chính là hạt nhân, then chốt. Để phát triển khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Trung Quốc có chủ trương vừa tăng cường học hỏi các thành tựu của khoa học kỹ thuật nông nghiệp, vừa tăng cường tính sáng tạo, tự chủ. Dựa vào khoa học kỹ thuật để phát triển nông nghiệp chính là điểm mấu chốt nền nông nghiệp, từng bước hiện đại hóa nền nông nghiệp, khoa học kỹ thuật công nghệ cao là trụ đở chủ yếu cho nền nông nghiệp hiện đại[6]. Trong vòng 30 năm trở lại đây, nền nông nghiệp Trung Quốc đã đạt được nhiều thành quả to lớn, song cũng gặp không ít những trở ngại, khó khăn trong đó có vấn đề về đất đai, vốn, lao động và các nút thắt cổ chai về thể chế. Diện tích đất bình quân đầu người của Trung Quốc bằng 1/3 mức bình quân chung của thế giới; nguồn tài nguyên nước bình quân đầu người chỉ bằng 28% mức bình quân thế giới; thiếu nguồn lực lao động chất lượng cao và nắm được khoa học kỹ thuật mới về nông nghiệp ngày càng hiển hiện. Trước tình hình đó, việc dựa vào thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ cao nông nghiệp là tất yếu, từng bước tăng cường giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp[7].

Nhìn tổng quan, áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao trong nông nghiệp của Trung Quốc vẫn chưa đều, đội ngũ nghiên cứu khoa học thuật thuật chưa đáp ứng về số lượng và chất lượng, kinh phí dành cho nghiên cứu còn hạn chế và đơn chủ thể (đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật về nông nghiệp chiếm 0.4% GDP, nguồn kinh phí đơn nhất (chủ yếu là chính phủ), chưa phát huy vai trò của xã hội và các chủ thể khác), cơ chế và môi trường nghiên cứu, sáng tạo, áp dụng khoa học, kỹ thuật cao vào nông nghiệp còn nhiều bất cập[8].

2.2. Mở rộng phạm vi áp dụng khoa học kỹ thuật

Những năm qua, tiến trình áp dụng khoa học kỹ thuật và mở rộng phạm vi áp dụng vào các lĩnh vực khác nhau của nền nông nghiệp ở Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những giá trị mà khoa học công nghệ cao kết tinh trong nông nghiệp Trung Quốc đã chuyển hướng mạnh chuỗi giá trị về sản phẩm nông nghiệp. Nói khác đi, nhân tố khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị nông nghiệp, vừa đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia đông dân nhất thế giới, vừa nâng cao năng lực sản xuất nông nghiệp, phát triển hài hòa nông thôn-đô thị, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp ở thị trường nội địa và quốc tế[9].

Những năm gần đây, Trung Quốc bắt đầu mở rộng phạm vi áp dụng khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp. Quan niệm của quốc gia này là, chỉ có việc mở rộng phạm vi áp dụng (và sẽ phổ cập) khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp mới có thể nâng cao năng lực sản xuất. Ví dụ: tại Hà Nam, chính quyền tỉnh này đã có chủ trương “chuyên gia đến từng hộ”: cử chuyên gia đến từng hộ, hợp tác xã, khu nông nghiệp để thực hiện nhiệm vụ “đưa khoản cách giữa người nông dân và khoa học kỹ thuật về 0”, giải quyết vấn đề “trở ngại cuối cùng” cho nông dân (tức trở ngại về khoa học kỹ thuật), từng bước mở rộng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản phẩm, vùng miền, đối tượng[10].

Tuy nhiên, trở ngại là, nguồn kinh phí để mở rộng phạm vi áp dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp còn hạn chế, cơ chế quản lý và điều phối tài chính còn bất cập, vấn đề sắp xếp, bố trí chuyên gia kỹ thuật cao về nông nghiệp đến từng hộ, hợp tác xã, khu nông nghiệp kỹ thuật cao còn nhiều hạn chế do thiếu con người cũng như chế độ liên quan.

2.3. Công nghiệp hóa nền nông nghiệp

Ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp chủ yếu gồm sáu nhóm vấn đề: nhóm ứng dụng công nghệ thông tin; nhóm công nghệ vật liệu mới; nhóm công nghệ năng lượng mới; nhóm công nghệ sinh học; nhóm kỹ thuật ngư nghiệp và nhóm kỹ thuật không gian[11]. Công nghệ cao là hạt nhân của nền kinh tế hiện đại, các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển luôn có chính sách điều chỉnh và quy hoạch sản xuất về công nghệ cao cho thấy vấn đề khoa học kỹ thuật công nghệ cao là đòn bẩy cạnh tranh của nền nông nghiệp. So với nền nông nghiệp truyền thống, nền nông nghiệp công nghệ cao có tính tiên phong, tính tổng hợp, tính hệ thống, tính lan tỏa và cả tính rủi ro tương đối lớn. Từ thực tiễn Trung Quốc nhận thấy, những năm 90 của thế kỷ XX, quốc gia này đã có chủ trương công nghiệp hóa nền nông nghiệp, đến thời điểm hiện tại, năng lực công nghiệp hóa và nghiên cứu khoa học kỹ thuật công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp đã đạt được những thành quả nhất định. Bên cạnh đó, nền nông nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc cũng gặp phải những vấn đề trở ngại nhất định, trong đó có thành quả của khoa học công nghệ chưa theo kịp, sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chưa định hướng theo thị trường, năng lực của một số công ty, xí nghiệp nông nghiệp còn bất cập, nguồn nhân lực còn thiếu và yếu, cơ cấu tổ chức, trình độ quản lý và điều hành của các công ty, xí nghiệp nông nghiệp chưa hoàn thiện[12]. Từ thực tiễn đó, chính phủ Trung Quốc đã có những động thái tích cực về vấn đề này.

2.4. Hình thành các “khu nông nghiệp” kỹ thuật cao

Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã có chủ trương xây dựng các khu nông nghiệp kỹ thuật cao và trở thành một chủ trương có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền nông nghiệp của quốc gia này[13]. Muốn hiện đại nền nông nghiệp, hình thành các khu nông nghiệp kỹ thuật cao thì cần phải tích tụ ruộng đất, đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, khuếch tán hiệu suất nông nghiệp, hình thành tư duy liên kết vùng trong nông nghiệp…từ đó hình thành các mắc xích sản xuất dài hơi hơn; lấy công nghiệp để phát triển nông nghiệp[14]. Do vậy, các khu nông nghiệp công nghệ cao đã lần lượt xuất hiện và nhanh chóng hình thành một hệ thống khu nông nghiệp công nghệ cao, tăng gia tốc cho nền nông nghiệp. Thế nhưng, so với các quốc gia phát triển như Mỹ, Canada… thì nền nông nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc còn nhiều bất cập, thậm chí yếu kém, nhất là chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường quốc tế.

 3. Xu thế và giải pháp phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc

Muốn đưa nền nông nghiệp truyền thống sang nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp công nghệ cao không thể không đổi mới tư duy, mạnh dạn trong đột phá chính sách, khai thông các điểm nghẽn trong cơ chế, chính sách trước đó, trong đó, việc áp dụng các thành quả của công nghiệp và trong nông nghiệp được Trung Quốc rất chú trọng. Từ những phân tích trên cũng như quan sát thực tiễn ở Trung Quốc cho thấy, xu thế phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao của quốc gia này gồm các đặc trưng sau:

3.1. Điều chỉnh, tái cơ cấu nguồn lực khoa học kỹ thuật nông nghiệp, chú trọng công tác sáng tạo về khoa học nông nghiệp

Phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao cần vai trò chủ đạo của nhà nước, lấy phát triển nông nghiệp bền vững làm mục tiêu, hình thành các “đặc khu nông nghiệp” làm động lực, điểm nhấn. Trung Quốc đã đẩy mạnh các nghiên cứu cơ bản về nông nghiệp và đồng thời ứng dụng các thành quả nghiên cứu này vào từng lĩnh vực nông nghiệp trong tất cả các khâu, mắc xích của chuỗi giá trị. Chỉnh hợp và điều phối một cách hợp lý các nguồn lực hiện hữu về khoa học nông nghiệp, hình thành cơ chế chia sẻ các thành quả của khoa học kỹ thuật trong nước, khuyến khích những ý tưởng, sáng tạo, khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Đặc biệt chú ý tránh sự trùng lắp giữa các địa phương, vùng về vấn đề nghiên cứu, tránh lãng phí trên bình diện chung[15]. Có cơ chế đảm bảo thu nhập cho đội ngũ nghiên cứu về nông nghiệp, từng bước tự chủ về khoa học kỹ thuật nông nghiệp.

3.2. Kiện toàn cơ chế mở rộng phạm vi áp dụng nông nghiệp công nghệ cao, nhanh chóng chuyển hóa kết quả nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn

Chuyển hóa kết quả nghiên cứu nhằm nâng cao phẩm chất và hiệu suất sản phẩm nông nghiệp, biến tri thức thành các sản phẩm nông nghiệp; thay đổi kết cấu của một thành phẩm nông nghiệp (hàm lượng tri thức kết tinh trong sản phẩm nông nghiệp phải cao hơn hàm lượng sức lao động chân tay trong cùng một sản phẩm). Tính từ khi nhà nước Trung Hoa mới được thành lập đến nay đã có hơn 10 vạn kết quả nghiến khoa học được áp dụng vào lĩnh vực nông nghiệp. Chỉ tính ở thập niên 70 của thế kỷ XX, các thành quả khoa học này đã nâng hiệu suất sản xuất nông nghiệp 27% lên đến 40%[16]. So với hiệu suất chuyển giao khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở các nước đang phát triển thì còn khác biệt (thông thường ở các nước phát triển tỷ lệ này là 60-80%), do đó, Trung Quốc đã hạ quyết tâm tăng cường cơ chế chuyển hóa kết quả nghiên cứu và mở rộng kết quả này đến nhiều lĩnh vực nông nghiệp. Trong đó, việc kiện toàn cơ chế, chính sách để thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ cao vào nông nghiệp được chú trọng; kiến lập các thiết chế tài chính, tín dụng phục vụ công tác nghiên cứu khoa học được đề cao; chuyển đổi nhận thức về vai trò của công nghệ đối với nông nghiệp được quán triệt đến các cấp và người nông dân.

3.3. Tăng cường công tác thông tin nông nghiệp, xúc tiến phát triển khoa học kỹ thuật trình độ cao, ứng dụng công nghệ thông tin vào nông nghiệp

Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vào nông nghiệp, cung cấp thông tin chính xác về nhu cầu thị trường, không ngừng nâng cao trình độ tiếp cận thông tin, xử lý thông tin và áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất của người nông dân và các khu nông nghiệp. Trung Quốc xác định rằng, muốn gia tốc nền nông nghiệp không thể không áp dụng công nghệ thông tin vào nông nghiệp. Hiện tại, Trung Quốc có 7 tỉnh/thành phố đã trở thành kiểu mẫu về áp dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp và xem đây là “tấm gương”, là kiểu mẫu, là “giá trị thực tiễn” cho các địa phương khác học tập, áp dụng[17]. Thông qua các hình thức “dịch vụ trực tuyến phục tương tác với nông dân”, “dịch vụ video trực tuyến” đã giúp người nông dân trên cả nước gần nhau hơn, có điều kiện chia sẻ kinh nghiệm và giải đáp những khuất tất trong quá trình sản xuất. Khi tăng cường ý thức về công nghệ thông tin cho người dân sẽ giúp họ nâng cao năng lực áp dụng khoa học vào sản xuất, nâng cao hiệu suất sản xuất.

3.4. Nâng cao thu nhập cho nông dân và chuyên gia kỹ thuật nông nghiệp

Giới nghiên cứu Trung Quốc luôn chú trọng và tìm kiếm mối tương quan giữa biến số thu nhập của người nông dân với các biến số khác, trong đó chú trọng và khẳng định đến biến số về khoa học kỹ thuật. Thông qua nghiên cứu thực chứng đã chứng minh, trong một nền kinh tế mà tất cả những người sản xuất đều bị động trong tiếp nhận, thì người nông dân nào, nền nông nghiệp nào sớm áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao vào quá trình sản xuất thì giá thành sẽ giảm xuống, chất lượng sản phẩm được nâng cao, và tất nhiên lợi nhuận của sản phẩm nông nghiệp đó sẽ nhiều hơn; thế nhưng, khi mà khi áp dụng khoa học kỹ thuật cao một cách phổ biến khiến cho tổng sản phẩm nông nghiệp cũng gia tăng, mất cân đối về cung cầu thì thu nhập của người sản xuất cũng có nguy cơ sụt giảm do cùng cung thừa. Do đó, việc áp dụng khoa học kỹ thuật bản thân nó không có ý nghĩa tự thân. Nói cách khác, thu nhập của người nông dân, hộ sản xuất nông nghiệp vẫn là điểm then chốt nhất.

Nhiều học giả Trung Quốc đã sử dụng Mô hình VAR để khảo sát mối quan hệ giữa thu nhập của người nông dân với việc áp dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất đã chỉ ra có mối tương quan tương đối ổn định trong một thời gian dài. Nói cách khác, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và mức độ áp dụng công nghệ vào nông nghiệp đã giúp gia tăng thu nhập (và ổn định) cho người nông dân. Thiết nghĩ đây cũng là gợi mở tốt cho việc nghiên cứu và áp dụng mô hình cho Việt Nam.

4. Một số gợi ý đối với Việt Nam trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao thời gian đến

Từ những phân tích trên cho thấy, áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao vào lĩnh vực nông nghiệp không còn là vấn đề lựa chọn hay không lựa chọn mà là xu thế tất yếu. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, do đó, trong thời gian đến, muốn áp dụng và phát triển nông nghiệp công nghệ cao cũng cần có một chiến lược hết sức bài bản, khoa học nhưng không nóng vội.

Từ thực tiễn của Trung Quốc trong áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp để hình thành một nền nông nghiệp công nghệ cao đã gợi mở cho chúng ta một số điểm sau:

Thứ nhất, với một quốc gia hay vùng kinh tế, thì cần phải xác định đúng và “trúng” về lợi thế của quốc gia (hay vùng) là gì, khó khăn và thuận lợi ra sao, các nhân tố nào tác động (trực tiếp và gián tiếp) đến việc áp dụng, phát triển một nền nông nghiệp công nghệ cao trước khi bàn đến vấn đề thúc đẩy hay áp dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật tiên tiến vào nông nghiệp. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, tuyệt đối không dàn trải hoặc “làm theo phong trào” mà phải hết sức thận trọng mà trước mắt là thí điểm một số địa phương ở một số sản phẩm nông nghiệp đặc thù (có thế mạnh, đầu ra, chuỗi cung ứng ổn định,…).

Thứ hai, cần hình thành một “đặc khu nông nghiệp” công nghệ cao, chất lượng cao mà trước hết là nhắm đến các sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam như cà phê, hồ tiêu, bơ, cây ăn trái, thủy hải sản và một số sản phẩm khác có thế mạnh. Khi hình thành một đặc khu nông nghiệp sẽ tạo cú hích cho các ngành nghề phụ trợ khác và tạo lực hút các nhà đầu tư. Tất nhiên, Nhà nước và vai trò của Nhà nước (kể cả chính quyền địa phương) là hết sức quan trọng. Theo đó, Nhà nước sẽ định hướng và khuyến khích các doanh nghiệp vào các “khu chế xuất” nông nghiệp và áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ nào trong từng khâu, mắc xích của chuỗi giá trị để gia tăng tỷ lệ về “hàm lượng khoa học” vào từng sản phẩm nông nghiệp, tăng chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thứ ba, thông tin nông nghiệp và thông tin thị trường được ví như “chất dầu nhớt” bôi trơn cỗ máy nông nghiệp; công nghệ thông tin được xem như “bộ não” của cổ máy nông nghiệp. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, song song với việc cung cấp thông tin thị trường, các thông tin liên quan đến cung cầu cũng như dự báo xu hướng phát triển của từng lĩnh vực nông nghiệp, họ còn tạo cơ chế và khuyến khích nông dân, các hợp tác xã, doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông tin để sản xuất, trao đổi thông tin, quản bá hình ảnh, tiêu thụ sản phẩm, quản lý quá trình sản xuất… Thực tế ở Việt Nam cho thấy, hiện tượng nông dân “mù thông tin” và “mù công nghệ thông tin” không phải là hiếm, từ đó có cách làm kiểu tự phát, phong trào, thậm chí cảm tính; thiếu hẳn tính liên kết, tính thị trường, tính hiệu quả, tính bền vững.

Thứ tư, nền nông nghiệp công nghệ cao gắn với thu nhập của người nông dân phải cao và bền vững. Rõ ràng, khi áp dụng công nghệ cao, thành tựu của khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp nhưng người nông dân vẫn nghèo, các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp còn long đong thì cũng không có ý nghĩa gì nhiều, nếu không muốn nói là phản tác dụng. Thực tiễn Trung Quốc đã chứng minh, có sự tương quan giữa biến số thu nhập của người nông dân với việc họ áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, thế nhưng vấn đề là ở chỗ: (1) không phải nhóm nông dân nào cũng “thức thời” và đủ trình độ để áp dụng công nghệ cao vào sản xuất; (2) áp dụng công nghệ cao để nâng cao giá trị, chất lượng, hiệu quả của sản phẩm nhưng đầu ra sản phẩm không được đảm bảo thì cũng khó có thu nhập ổn định; (3) niềm tin của người nông dân đối với chính sách của nhà nước (kể cả chính sách vốn) sẽ quyết định đến vấn đề đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bởi một khi áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cũng đồng nghĩa với việc từ bỏ những thoái quen cũ, hình thành hành vi mới trong nhìn nhận giá trị của khoa học, áp dụng khoa học vào sản xuất. Do đó, Việt nam muốn có một nền nông nghiệp công nghệ cao thì trước hết và tiên quyết là chính người nông dân phải thay đổi ý thức, nhìn thấy được sức mạnh của khoa học công nghệ trong sản xuất. Bởi chính họ, người nông dân, là chủ thể quan trọng trong quá trình xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ cao.

Tài liệu tham khảo

1.     Phạm Đi, Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay – Nghiên cứu vùng duyên hải Nam Trung bộ, Nxb CTQG-ST, H.2016.

2.     Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb CTQG-ST, H.2018.

3.     Lư Lương Nộ, Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong điều kiện mới. Tạp chí Thông tin nông nghiệp Trung Quốc (China Agricultural Information), số 3 năm 2008.

4.     Đào Xuân, Trần Quốc Dụ, Dựa vào khoa học kỹ thuật để đột phá kết cấu nhị nguyên nông thôn - đô thị. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Trung Quốc, số 7 (16/4/2012).

5.     Đỗ Lệ Hoa, Một số chính sách nhằm tăng cường mở rộng mạng lưới khoa học kỹ thuật nông nghiệp. Tạp chí Thông tin nông học Trung Quốc, số 11 (2011).

6.     Lư Lương Nộ, Cải cách thể chế và áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, đẩy mạnh tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp. Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Trung Quốc, số 9 (3) 2007.

7.     Trương Lai Vũ, Lấy sáng tạo khoa học kỹ thuật làm động lực thúc đẩy phát triển và hiện đại hóa nông nghiệp, Diễn đàn Khoa học kỹ thuật Trung Quốc, số 4/2012.

8.     Hạnh Tường Phi, Vương Tế Dân, Nghiên cứu chuyển hóa kết quả khoa học nông nghiệp. Tạp chí Quản lý khoa học kỹ thuật nông nghiệp, số 6 (3) 2011.

9.     Điền Vân Phong, Tô Lỗi.  Mở rộng áp dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở tỉnh Hà Nam: thực trạng, vấn đề và kiến nghị chính sách. Tạp chí Quản lý khoa học kỹ thuật nông nghiệp, số 31 (2) 2012.

10.             Trương Cảnh Đình, Vương Thụ Tiến, Nghiên cứu vấn đề công nghiệp hóa nền nông nghiệp kỹ thuật cao ở nước ta, Tạp chí Đại học Nông nghiệp Nam Kinh, (phần Khoa học xã hội), số 2/2002.

11.             Hàn Trường Vũ, Đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, Tạp chí Thiết bị và kỹ thuật nông nghiệp, số 2/2011

12.             Hùng Đào, Thẩm Kỳ Phong, Trần Quang Vũ. Mấy suy nghĩ về hệ thống sáng tạo khoa học công nghệ cao về nông nghiệp ở khu vực Giang Tây, Tạp chí Quản lý khoa học kỹ thuật Nông nghiệp. số 32(1)/2013

13.             Từ Đại Vi (nhiều tác giả), Bàn về các đối sách nhằ tăng cường mức độ chuyển giao khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Tạp chí Quản lý sáng tạo và kỹ thuật, số 33 (2)/2012.

14.             Triệu Trào Na, Nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ thống khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở tỉnh Hà Nam trong xây dựng nông thôn mới, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp An Huy, số 39 (9)/2011.



[1] Phạm Đi, Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay – Nghiên cứu vùng duyên hải Nam Trung bộ, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr. 77-80.

[2] Lư Lương Nộ, Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong điều kiện mới. Thông tin nông nghiệp Trung Quốc (China Agricultural Information), số 3 năm 2008.

[3] Còn gọi là Chỉ thị số 1 (nguyên văn tiếng Trung là “一号文件”). Tại Trung Quốc, gần như tất cả các văn kiện, chỉ thị đầu năm mới đều dành riêng cho nông nghiệp, lĩnh vực nông nghiệp cho thấy sự trọng thị của Đảng và Nhà nước Trung Quốc về vấn đề nông nghiệp. Chủ đề của Chỉ thị số 1 năm 2012 là “Một số ý kiến về thúc đẩy sáng tạo và khoa học kỹ thuật nông nghiệp, tăng cường năng lực đảm bảo cung cấp các sản phẩm nông nghiệp quốc gia

[4] Đào Xuân, Trần Quốc Dụ, Dựa vào khoa học kỹ thuật để đột phá kết cấu nhị nguyên nông thôn - đô thị. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Trung Quốc, số 7 (16/4/2012).

[5] Nếu như trước đây để phát triển công nghiệp thì Trung Quốc (và cả Việt Nam) thường hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất,… thì để phát triển nền nông nghiệp, Trung Quốc có chủ trương các khu nông nghiệp, khu chế xuất tương ứng.

[6] Lư Lương Nộ, Cải cách thể chế và áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, đẩy mạnh tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp. Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Trung Quốc, số 9 (3) 2007.

[7] Trương Lai Vũ, Lấy sáng tạo khoa học kỹ thuật làm động lực thúc đẩy phát triển và hiện đại hóa nông nghiệp, Diễn đàn Khoa học kỹ thuật Trung Quốc, số 4/2012.

[8] Lư Lương Nộ, Cải cách thể chế và áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, đẩy mạnh tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp. Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Trung Quốc, số 9 (3) 2007

[9] Hạnh Tường Phi, Vương Tế Dân, Nghiên cứu chuyển giao kết quả khoa học nông nghiệp. Tạp chí Quản lý khoa học kỹ thuật nông nghiệp, số 6 (3) 2011.

[10] Điền Vân Phong, Tô Lỗi.  Mở rộng áp dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở tỉnh Hà Nam: thực trạng, vấn đề và kiến nghị chính sách. Tạp chí Quản lý khoa học kỹ thuật nông nghiệp, số 31 (2) 2012.

[11] Trương Cảnh Đình, Vương Thụ Tiến, Nghiên cứu vấn đề công nghiệp hóa nền nông nghiệp kỹ thuật cao ở nước ta, Tạp chí Đại học Nông nghiệp Nam Kinh, (phần Khoa học xã hội), số 2/2002.

[12] Trương Cảnh Đình, Vương Thụ Tiến, Nghiên cứu vấn đề công nghiệp hóa nền nông nghiệp kỹ thuật cao ở nước ta, Tạp chí Đại học Nông nghiệp Nam Kinh, (phần Khoa học xã hội), số 2/2002.

[13] Theo Cương lĩnh phát triển khoa học kỹ thuật nông nghiệp của Đảng cộng sản Trung Quốc.

[14] Hàn Trường Vũ, Đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, Tạp chí Thiết bị và kỹ thuật nông nghiệp, số 2/2011.

[15] Hùng Đào, Thẩm Kỳ Phong, Trần Quang Vũ. Mấy suy nghĩ về hệ thống sáng tạo khoa học công nghệ cao về nông nghiệp ở khu vực Giang Tây, Tạp chí Quản lý khoa học kỹ thuật Nông nghiệp. số 32(1)/2013.

[16] Từ Đại Vi (nhiều tác giả), Bàn về các đối sách nhằ tăng cường mức độ chuyển giao khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Tạp chí Quản lý sáng tạo và kỹ thuật, số 33 (2)/2012.

[17] Triệu Trào Na, Nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ thống khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở tỉnh Hà Nam trong xây dựng nông thôn mới, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp An Huy, số 39 (9)/2011

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ